Tôi yên vị trên xe, lèn chặt bên tôi là một bà
buôn chuyến to ngang phốp pháp chứ không phải Nguyễn Xuân Phùng. Tôi không hiểu
vì sao tôi và Phùng chen chân mua vé ở bến xe miền Đông, đứa trước đứa sau thì
khi cầm được tấm vé mỏng tang vàng xỉn thì tôi đi chuyến xe số 6 còn Phùng
chuyến số 5. Phùng lo lắng: “Như thế này thì làm sao trời, còn đúng 20 đồng!”.
Tôi bảo: “Chia ra đi”. Vậy là chúng tôi chia đều ra mỗi đứa 10 đồng.
Trước khi tôi đi thi đại học, anh tôi cằn nhằn:
“Mày thi đâu không thi, vào tận Sài Gòn. Mày chưa ra khỏi cái huyện Sông Cầu
này, phía bắc chưa bao giờ bước tới đỉnh Cù Mông, phía nam chưa qua khỏi dốc
Găng. Vào Sài Gòn lớ ngớ không xe tông thì cũng lạc đường.” Tôi nói: “Em có
thằng Phùng dẫn đi.” Anh tôi: “Không cộng không bằng mấy?” Tôi bảo: “Nó có ông
chú ở Nhà Bè và nó có địa chỉ”. Anh tôi dịu giọng: “Anh nghe nói nó không thi
đại học, ở nhà làm muối mà?”. Tôi không trả lời. Anh móc ra mấy đồng đưa cho
tôi bảo: “Tao chỉ có từng này, đủ mua vé vào Sài Gòn”. Xong anh kéo dưới gầm
giường một cái khay to đựng toàn sơn, anh trao cho tôi bốn tuýp sơn dầu bằng
ngón chân cái mới nguyên và bảo: “Đây là tiền về, đủ cho hai đứa. Khi nào thi
xong hỏi thăm người ta tìm đến đường Nguyễn Huệ - Quận 1 bán cho những người
mua hàng vặt. Tao vẫn thường làm như vậy khi còn học trong đó.”
Trước anh tôi học Mỹ thuật ở TP.HCM. Ngày đó
cha mẹ tôi còn sống, làm ăn khá giả nên lo cho anh học hành tới nơi tới chốn.
Tới tôi thì cha mẹ mất, vậy là trời phán cho tôi một câu: Hãy tự sinh, tự diệt!
Nếu không có Xuân Phùng thì chắc chắn tôi không thể nào thi đại học được.
Một
chiều khi tôi đang ngồi trầm ngâm ở Gành Rau, trước mặt tôi là đầm Cù Mông đang
tối dần như tâm trạng của tôi đang dần tối khi mà giấy báo thi đã cầm trong tay
nhưng tôi không làm cách nào đi được. Vậy là những đêm, bên ngọn đèn dầu Bịch
nhỉ, dưới gốc xoài toả tán âm u sau nhà, một thằng người
đơn độc dùi mài kinh sử khi ngoài kia, trên Uỷ ban xã đang chiếu phim di động,
đang lô tô xổ số hay ít ra bạn cùng trang lứa đang quây quần hát ca inh ỏi, với
tôi, trở thành công cốc ư?
Bạn tôi tới ngồi bên tôi, Phùng im lặng và tôi
cũng thế. Buồn rầu nhưng tin tưởng. Sau Phùng nói: “Hay là tao dẫn mày đi?”.
Tôi ngước nhìn nó. Nó bảo: “Tao có ông chú ruột ở Nhà bè, tao có địa chỉ. Mày
khỏi lo nơi ở và ăn uống”.
Vậy là chúng tôi đi. Trên chuyến xe xuất phát từ
Qui Nhơn, Xuân Phùng từ lúc lên xe cho tới khi kết thúc cuộc hành trình nó ngủ
lăn lóc như một củ khoai lang lạc loài, còn tôi hồi hộp và khấp khởi cho một
chuyến đi xa. Trong suốt hai đêm một ngày, những miền đất xa lạ đã cuốn hút tôi
với bao mơ ước cho một tương lai sắp tới. Tôi rất ấn tượng về mạng lưới điện
cao thế chạy dọc dài theo quốc lộ, tôi chiêm nghiệm cách mắc hình sao, hình tam
giác trên những quãng đường một cách thích thú, đơn giản là
tôi học môn vật lý nhưng tới khi thi đại học vẫn chưa từng được thấy cái bóng đèn điện nó ra làm sao!
Cuối cùng chúng tôi vẫn tìm ra được nhà chú
của Phùng. Đó là một căn nhà gỗ, mái lợp bằng những tàu dừa nước. Ngôi nhà ẩn
mình sau vô vàn tán lá của những loại cây ăn quả, phía trước là một vuông ao
nuôi toàn cá tai tượng. Một cây cầu cũng làm bằng gỗ, soi mình trên mặt ao
phẳng lặng. Thanh bình và trong vắt. Chúng tôi tìm tới thì hoàng hôn đã xuống.
Khi tôi bước lên cầu bổng rợn người vì một giọng hát vút cao trong tiếng guitar trầm ấm. “Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời, cho người tôi mãi ...”. Trước mắt
tôi, trên khoảng sân trước nhà, bóng một cô gái mặc bộ đồ màu trắng, xoã mái đen bóng trên thân đàn say sưa hát bài Serenat của
Schubert. Phùng nói với tôi: “Con Phương”. Rồi quay lại định cất tiếng gọi, tôi kịp kéo Phùng ngồi xuống.
Cô gái vẫn hát, giọng nhỏ nhưng cao. Đôi lúc nàng ngẩng mặt lên, trong ánh điện
mờ nhạt dưới hiên nhà, tôi thấy một khuôn mặt trắng bợt bạc, yếu đuối đến ma mị.
Phương lớn hơn tôi 3 tuổi, thi rớt đại học thì
ở nhà. Phương gọi Xuân Phùng bằng anh theo vai vế, còn tôi thì gọi tên xưng
chị. Ngày thi Phùng chở tôi bằng xe đạp trên suốt quãng đường từ Nhà Bè tới Quận
3 gần 20 cây số. Buổi trưa khi thi xong môn đầu tiên, tôi và Phùng ngồi dưới
gốc cây gần địa điểm thi, ăn bữa cơm trưa trong hai cái cà mèn bằng sắt dùng
trong quân đội mà Phương đã cẩn thận chuẩn bị từ sáng sớm, Phương bảo cà mèn có
miếng sườn chính tay nàng nướng là của tôi. Chúng tôi vật vạ bên gốc cây chờ
tới giờ thi tiếp buổi chiều. Trong buổi trưa nắng như đổ lửa, trong cái không
khí ồn ả người xe nườm nượp, Phùng luôn miệng văng tục về cái sự bất công, mắt
luôn lườm nguýt những thí sinh được cha mẹ ân cần đưa rước tận nơi, và ái ngại
khi quay lại nhìn vào mắt tôi. Riêng tôi trong buổi trưa hè đó, tôi không thấy
dòng người đang cuồn cuộn ngược xuôi trước mắt tôi, không nghe cái âm thanh ồn
ào hỗn độn của một phố xá đông đúc nơi Sài Thành. Tôi nhìn chăm chú vào một cây
phượng già sót lại bên lề đường gắng trổ những bông hoa phủ đầy bụi. Ký ức vụt
qua nhanh trong tôi như ánh chớp nhưng rõ ràng từng chi tiết: Ngôi làng nhỏ bên
đầm Cù Mông, dưới tán cây xoài âm u, tập sách tích phân dày cộp của Liên xô, chuyến
hành trình xa nhà lần đầu tiên, miếng sườn nướng và Phương, gợi cho tôi một nỗi
buồn len lén cùng một niềm tự hào cũng dâng lên từ đó.
Phương hỏi, tôi trả lời : “Cũng được chị. Toán, lý
làm tốt, chỉ sợ môn hoá”
Phương nói, ánh mắt xa xăm, da mặt trắng hơn cà dường như trở nên trong suốt: “Nếu đậu thì vào đây ở...”. Mắt Phương trở nên đen
và nhấp nháy. Tôi khẽ khàng gật đầu và đọc tiếp quyển truyện Bức hoạ Maja Khoả Thân trong tủ sách nhà
Phương, nàng cũng cuối xuống quyển sách
trên tay. Bỗng nhiên Phương rùng mình chạy tới bên tôi,
nàng gấp lại cho tôi thấy tựa đề quyển sách “Những vì sao” của nhà văn Pháp An phông Đô Đê, vội
vàng lật lại chỉ cho tôi một đoạn văn, tôi đọc, cảm giác Phương đang run rẩy
bên tôi: “Và
trong khi tôi đang cố giải thích cho nàng thế nào là những hôn lễ của các vì
sao, thì tôi cảm thấy như có vật gì tươi mát và mịn màng đè nhẹ lên vai tôi.
Thì ra đầu nàng, nặng trĩu vì buồn ngủ, đã tựa vào vai tôi với tiếng sột soạt
êm ái của những dải đăng ten và mái tóc gợn sóng của nàng. Nàng ngồi yên không nhúc
nhích, đầu tựa vào vai tôi như thế cho đến khi những vì sao bắt đầu lu mờ dần
và nhoà đi trong những tia sáng đầu tiên của buổi ban mai. Còn tôi, tôi nhìn
nàng ngủ, trong đáy lòng hơi xao xuyến một chút, nhưng vẫn giữ được sự thanh
khiết của tâm hồn vì đêm sao sáng như thế kia bao giờ cũng đem lại cho tôi
những ý nghĩ cao đẹp. Chung quanh chúng tôi, ngàn sao vẫn tiếp tục cuộc hành
trình thầm lặng, ngoan ngoãn như một đàn cừu vĩ đại, và đôi lúc tôi có cảm
tưởng như một trong những ngôi sao kia, ngôi sao thanh tú nhất, sáng ngời nhất,
vì lạc mất đường đã đến tựa đầu vào vai tôi và ngủ giấc yên lành...”
Ngày mai chúng tôi về. Chiều hôm đó Phương mời
tôi và Phùng xem phim. Chúng tôi đi vào trung tâm thành phố, cũng bằng đoạn
đường Phùng chở tôi đi thi. Tôi chở Phương. Nàng nhỏ nhắn hun hút phía sau, chỉ
có ngọn gió xuôi chiều làm vạt áo Phương loà xoà bên tôi. Phương im lặng và tôi cũng thế. Xuân Phùng đạp xe
phăm phăm về phía trước, thỉnh thoảng nó nhăn nhó đứng chờ. Hôm đó rạp chiếu bộ
phim mà tôi còn nhớ mãi: Em không thể nói lời từ biệt, một bộ phim tình cảm
thời Liên Xô, nói về một đôi vợ chồng, vì người chồng bị căn bệnh có từ hồi
chiến tranh, nên muốn cô vợ ly dị để kiếm hạnh phúc mới, nhưng người vợ vẫn một
mức thuỷ chung. Tới đoạn người chồng cầm ly thuốc độc định
uống thì người vợ bắt gặp, không giằng lấy, hô hoán, người vợ chỉ khẽ bảo: “Anh hãy uống một nữa, hãy
để em một nữa”. Tôi bỗng nắm lấy bàn tay Phương, nàng run rẩy
trong tay tôi.
Tối hôm đó Phương hát bài Serenat của Schubert
dường như trong thổn thức. Tôi gỡ lấy cây đàn trong tay Phương vì sợ Phương
khóc thật. Và tôi đàn, Phương như bừng tỉnh và ngây ngất. Tôi đàn tới bản
Larima (Giọt lệ) và nàng đã khóc. Phương bảo: Nghe sao rưng rức!
Và chúng tôi về. Tôi yên vị trên xe, lèn chặt
bên tôi là một bà buôn chuyến to ngang phốp pháp chứ không phải Nguyễn Xuân
Phùng. Tôi và Phùng chia nhau số tiền bán được bốn tuýp màu sơn dầu của anh tôi
cho. Sau khi mua vé xe thì mỗi đứa còn lại đúng 10 đồng. Phùng đi chuyến xe số
5, tôi số 6. Trong khi chờ đợi, Phùng ăn hết gối xôi Phương đã ân cần cho mỗi
đứa. Tôi không ăn dù đang đói.
Tới Long Khánh, tôi mua 1 ký chôm chôm vậy là
hết nhẵn tiền. Tôi phân ra từng trái: trái nào là Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang, Nha
Trang… để ăn dần cho tới khi về đến nơi. Trên đường đi chị to ngang phốp pháp,
sau khi ăn uống những bữa chính dọc đường, thỉnh thoảng chị ta có mang cho tôi nửa ổ bánh mì, trái chuối. Trước khi về Phương tặng cho tôi
quển truyện “Bức
hoạ Maja khoả thân” tôi đã đọc dở dang, nàng
viết trên trang đầu quyển sách:
“Con
thiêu thân chết,
Ngàn năm không hối.
Chỉ tiếc anh,
Ngọn lửa vội tàn…”
Tôi đọc quyển truyện tằn tiện từng chữ, từng
hàng trong suốt hành trình về, giống như những trái chôm chôm của tôi vậy.
Về tới bến xe tôi thấy Phùng đang lả người chờ
tôi. Từ bến xe về cái làng quê tôi phải hơn 15 cây số nữa. Nó bảo: “Đói quá. Để
tao đi bán cây viết, ăn rồi tính”. Cây viết quí nó mua định về tặng cho thằng
em nó làm quà cho một chuyến đi xa. Phùng đi rồi quay lại, tôi và nó thưởng
thức bữa ăn đó cho dù sau này, tôi và nó có những bữa tiệc hoành tráng vẫn
không bao giờ quên món bánh xéo nóng bến xe năm nào.
Tôi rớt đại học sát nút. Sau đó tôi vào Trung
cấp Xây dựng theo nguyện vọng 2, bỏ lại sau lưng tôi một trời mơ ước, một lời
ước nguyện, một hình hài mong manh, con thiêu thân và ngon lửa…
Gần 20 năm sau tôi có dịp vào lại và sống ở
Sài Gòn. Tôi tìm gặp Phương. Tất cả đã đổi khác. Không còn con đường đất đỏ,
không còn vuông ao và cây cầu in bóng, không còn căn nhà gỗ tĩnh lặng và trong
vắt. Phương không còn nhận ra tôi. Tôi phải cố giải thích và khơi gợi những kỷ niệm nhưng tuyệt nhiên người đàn bà già nua, đen đúa với
đôi mắt thâm quầng trũng sâu cứ lắc đầu quầy quậy. Cả một
thời gian sau đó lòng tôi nặng trĩu, vừa oán hờn vừa thương cảm. Tôi hối hận vì
quyết định cố tìm gặp Phương.
NGUYỄN HUỲNH
_________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét