1. Chu Thần Cao Bá Quát, một hiện
tượng hiếm quý trong thơ trung đại. Mà, có lẽ cho đến nay, người đời vẫn chưa đánh
giá một cách sâu sắc, đích
thực… về ông - nhất là mảng thơ Hán tự.
Nếu gọi ra điệu hồn riêng trong
thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, có thể khái quát trong mấy chữ này chăng: Một
hồn thơ phóng khoáng, đôn hậu và cũng đầy kiêu hãnh, sâu sắc!
Với “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn
đi trên bãi cát) - thi phẩm đặc sắc, trong chương trình Ngữ văn lớp 11, Cao Bá Quát
thực sự đã kết đọng trong lòng độc giả những cảm nhận khó quên về một Người và
cũng là một lớp Người: Nhà Nho tài tử! Những kẻ sĩ - nghệ sĩ yêu đến tôn thờ cái
đẹp:
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Một đời (ta) chỉ
biết cúi đầu trước hoa mai!)
Những kẻ sĩ - nghệ sĩ, chân thành
và kiêu hãnh trong cảm hứng trước thiên nhiên mà giãi bày tâm nguyện:
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lí tâm
(Nếu không thấy được sóng hùng
Làm
sao biết được tấc lòng muôn phương)
2. Đứng ở góc độ người dạy, muốn
thẩm định thi phẩm “Sa hành đoản ca”,
tôi muốn nhấn tới một điều thiết thực, cơ bản trong giảng dạy. Đó là, giúp học
sinh nắm bắt đời và thơ của thi sĩ họ Cao - tất nhiên, từ đó cần chỉ ra nét riêng,
điệu riêng của thơ Chu Thần. Đấy chính là tâm thế, bức xúc của một thi nhân trước
bao điều bất công, ngang trái; trước bao điều thực giả hỗn độn giữa sa mạc - cuộc
đời! Cảm thức được điều đó, mới nhận ra, mới tường minh chất bản ngã, bản lĩnh
riêng của nhà thơ họ Cao. Cao Bá Quát đã
chọn hình thức biểu hiện của thơ ngũ ngôn - phù hợp với giọng điệu tâm tình,
cho riêng những câu thơ đầu:
2.1 Trường
sa phục trường sa,
Nhất
bộ nhất hồi khước.
Nhật
nhập hành vị dĩ,
Khách
tử lệ giao lạc.
(Bãi
cát dài lại bãi cát dài,
Đi
một bước như lùi một bước.
Mặt
trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ
khách trên đường nước mắt rơi)
Những câu thơ đầu của “Sa hành đoản ca” mở ra một hiện trạng, một
cảnh ngộ và cũng là sự lên tiếng đầy bức xúc, bức bối của nhân vật trữ tình (Khách tử).
Không gian và thời gian từ những
câu thơ trên như đe doạ, như dồn lữ khách tới cái bi thương của hoàn cảnh: ngày
sắp tàn (thời gian) mà không gian vẫn trải
mở dằng dặc, mênh mang cát trắng (trường
sa phục trường sa). Thực cảnh “bãi
cát dài” ấy đem đến cảm giác thật rùng mình - “Đi một bước như lùi một bước”.
Hình ảnh “bãi cát dài” vì thế có thể
khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, “được
hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy
cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị” (Sách Ngữ văn lớp 11, tập I, trang
40).
Nhưng, hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao,
thực sự bức bách như nỗi ám ảnh tâm tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật
trữ tình mới quá đỗi chân thực và xúc động:
“Khách tử lệ giao lạc” (Lữ khách trên đường
nước mắt rơi).
Từ hình ảnh về con người nhỏ bé,
mong manh giữa biển cát - cuộc đời (tất nhiên hình ảnh “trường sa” vừa mang ý nghĩa
tả thực, vừa là một ẩn dụ - tượng trưng), bài thơ của Cao Bá Quát lại mở
tiếp ra một cấp độ nữa của cảm xúc và suy tư.
2.2. Cao Bá Quát đã mượn và tựa vào
tích xưa - “Ông tiên ngủ kĩ” để gửi gắm
sự sáng tạo riêng của mình trong cách
nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời và con người:
Quân
bất học tiên gia mĩ thụy ông,
Đăng
sơn thiệp thuỷ oán hà cùng!
(Anh
không học được tiên ông có phép ngủ kĩ
Cứ
trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán!)
Về hình thức và giọng điệu của
hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời “tiên trách kỉ”, “tự trách kỉ”. Đọc và ngẫm kĩ, lại hoá ra lời phản ứng
quyết liệt của kẻ sĩ - thi nhân giàu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “ông
tiên ngủ kĩ ” để mà làm ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang, chất chồng như cát, như núi,
như nước giữa cuộc đời - nhân thế. Cao Bá Quát lên tiếng chối bỏ dạng người an
phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi
chuyển tiếp sang một góc nhìn hiện thực - hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm
can về đời, về người:
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm
hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường
thiểu tuý giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Tất
tả trên đường đời.
Đầu
gió hơi men thơm quán rượu,
Người
say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo
trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức tranh cuộc đời, cũng
là bức tranh nhân sinh:
- Phần đông con người - tầm thường
mang bản chất tham lam, vị kỉ và bon chen. Thế nên, tự cổ chí kim (cổ lai), bọn người ấy mới khốn khổ, mới
vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi:
Xưa
nay phường danh lợi,
Tất
tả trên đường đời.
- Cũng chính vì ham, vì mê mải trên
con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị dẫn dụ, bị cám dỗ,
bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ “mĩ tưủ”
dậy hương đưa từ đời, từ tửu điếm- nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người.
Những câu thơ của thi sĩ họ Cao
như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại cũng vừa thầm lặng
kiêu hãnh; nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người không muốn và không
thể tan hoà trong đám chúng sinh bon chen cầu danh lợi. Mượn những hình ảnh hiện
hữu đơn phương từ những “danh lợi nhân”, Cao tiên sinh đã tạo nên
thế tương phản, đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa cái tầm thường với cái
thanh cao; giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ con
người - bản thể của mình.
Cao Bá Quát cũng đồng thời nói lên
một sự thực mang tính quy luật: người tỉnh trên cõi thế, giữa thời loạn luôn là
người gánh chịu nỗi cô đơn. Cô đơn nên mới một mình vất vưởng trên sa mạc mà cũng
là hoang mạc - thời đại. người nghệ sĩ - kẻ sĩ chân chính cũng phải biết chấp
nhận cô đơn, đau buồn mới tạo cho mình một tư thế khả dĩ đối mặt với đời.
2.3. Khúc ca đường cùng - Khúc ca
bi tráng
Tứ thơ của “Sa hành đoản ca” - trong những câu thơ cuối đang thực sự vận động với
nội lực đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão tố của lòng người:
Trường sa trường sa nại cừ hà?
(Bãi
cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một câu hỏi - tự nó
ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con người đi đường
mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt: đường thật nhiều ám ảnh, ghê sợ mà “bước đường bằng phẳng thì mờ mịt”!
“Sa hành đoản ca” của Cao Bá Quát, chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát
khởi phát từ lòng người, thật lạ:
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca
(Hãy
nghe ta hát khúc “đường cùng”)
Cái hay và ấn tượng trong những
con chữ của Cao Bá Quát là ở chỗ: tác giả dùng chữ “ca” (hát) chứ không dùng chữ “thuyết”
(nói). Thế nên không thể: “Thính ngã
nhất xướng cùng đồ thuyết” (hãy nghe ta
nói lời đường cùng).
Nỗi bi phẫn, u uất trong lòng, làm
sao chỉ giải toả bằng lời nói thường tình? Phải cuồng ca, sảng ca - những lời
ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn nỗi đau và niềm kiêu hãnh. Khúc
ca bi tráng của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào của cảm hứng. Trước cảnh tượng điệp
trùng vây bủa của núi, của sóng, của cát… phải biết đi tìm sự giải thoát cho số
phận:
Bắc
sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Nam
sơn chi nam ba vạn cấp.
(Phía
bắc núi Bắc núi muôn trùng,
Phía
nam núi Nam sóng muôn đợt)
Nhà thơ họ Cao chợt tìm đến mà hạ bút kết lại “Sa hành đoản ca” trong một câu thơ lạ. Và,
cũng chính vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở, tầm cảm xúc và suy tư cho toàn bộ
thi phẩm; tứ thơ cũng đột ngột dâng trào từ hình thức nghi vấn.
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
(Anh còn đứng làm chi trên
bãi cát)
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi với
bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng chính từ câu chữ ấy, lại đánh thức sự
tung phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Với Cao Bá Quát, con đường giải
thoát cho số phận mình là tìm đến và tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn
đau, bế tắc và cô đơn, trước bãi cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời – tiên
sinh họ Cao tìm đến kiêu hãnh giữa thiên nhiên khoáng đạt vĩnh hằng như tâm sự
của ông trong một bài thơ chữ Hán khác -
“Quá Dục Thuý Sơn”:
Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kì tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
(Trời đất có núi ấy
Muôn
thuở có chùa này
Phong
cảnh đã kì tuyệt
Lại
thêm ta đến đây)
TRẦN TRUNG
______________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét