TỐNG BIỆT HÀNH | thơ Thâm Tâm
Đưa người,
ta không đưa qua sông
Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
Ta biết người buồn
chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực!
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay.
Bài
thơ “Tống Biệt Hành” được nhà thơ Thâm Tâm sáng tác vào khoảng năm 1940. Kể từ
khi ra đời đến nay đã trên 75 năm bài thơ luôn luôn được yêu thích và đã được
đưa vào sách giáo khoa của học đường. Hành là một thể thơ cổ, thường được xử
dụng để diễn tả một tâm trạng bi phẩn, bi hùng. Bài thơ “Tống Biệt Hành” của
Thanh Tâm có hai nhân vật, người đưa tiễn và người ra đi. Tâm trạng của người
ra đi được biểu hiện qua lời của người đưa tiễn và ngược lại, tâm trạng của
người đưa tiễn cũng là tình cảm của người ra đi.
Vào đề với bốn câu thơ, tác giả đã cho ta nghe sự
va đập dồn dập của nhiều âm thanh:
“Đưa người, ta không đưa
qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”
Đoạn thơ có nhiều chữ “không” và lạ thay, nội chứa
trong chữ “không” đó nẩy sinh chữ “có”: Không sông thì lại có tiếng sóng, không
thắm thì có mắt trong, không vàng vọt thì có hoàng hôn. “Không” và “có” là hai
từ đối lập nhau, lại hoà hợp trong đoạn thơ nầy, tạo thành âm thanh biểu hiện
nỗi ấm ức trong lòng. Đọc đoạn thơ ta thấy ngay nhiều nghịch lý xảy ra giử cảnh
và người đưa tiễn cũng như người ra đi. “Đưa người, ta không đưa qua sông/ Sao
có tiếng sóng ở trong lòng?” là nghịch lý xảy ra đối với người đưa tiễn, và “Bóng
chiều không thắm, không vàng vọt/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” là nghịch
lý xảy ra đối với người ra đi. Khung cảnh bên ngoài đối chọi với tình cảm trong
lòng là một nghệ thuật điêu luyên trong sáng tác. Tác giả dùng phương pháp “tá
khách hình chủ” nghĩa là mượn cái nầy để làm nổi bậc cái kia giống như Nguyễn
Du đã dùng cái đẹp của Thuý Vân để gần cái đẹp của Thuý Kiều, làm cho Thuý kiều
nổi bậc thêm lên. Ở đây Thâm Tâm đã dùng hai sự kiện “không” và “có”, mục đích
dùng cái không của không gian để làm nổi cộm lên cái có trong tâm hồn. Cái có ở
đây là nỗi buồn ly biệt.
Qua đoạn thứ hai của bài thơ:
“Đưa người, ta chỉ đưa
người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
Đoạn nầy ý nói người ra đi sẽ không quay về khi
chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba năm sau ngày giáp cử cũng không về để
tang mẹ được. Những câu thơ ở đoạn thơ nầy thật rắn rỏi nêu
lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch xuất quân, như
lời thề non nước.
Qua hai đoạn
thơ kế tiếp
như sau:
“Ta biết người buồn chiều
hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây
thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...”
Đoạn nầy có tác giả bình thơ nhận xét rằng “Không
những tầm thường mà còn hơi “sến” nữa”. Thật ra nhà thơ Thâm Tâm rất rành tâm
lý. Ở hai đoạn thơ trên biểu hiện niềm đau quặn thắt trong
lòng người đưa tiễn, sự xúc động đã dâng lên cao độ khi thốt lên tiếng kêu đau
thương “Li khách! li khách!”. Qua hai đoạn thơ nầylời thơ trở nên
kể lể vì niềm đau đã được nén xuống, hơi thở nhẹ đi, con tim bình tịnh lại.Nỗi
đau không còn là ngọn lửa bùng lên nữa mà bây giờ nó là ngọn lửa âm ỉ đốt cháy
trong lòng. Lời thơ kể lể ở đây không phải là “tầm thường”, không phải là “sến”
mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau
trong lòng nhân vật.
Đoạn chót của bài thơ như sau:
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi
thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như ly rượu cay”
Có người cho rằng đoạn thơ nầy “Quá cứng cỏi, lạnh lùng và vô tình”. Thật ra đây là một đoạn thơ rất
hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả. Những điều mà người ra đi phủ
nhận trong đoạn thơ nầy chính là những điều mà người ra đi canh cánh bên
lòng.Chữ “thà” ở đây không có nghĩa là “ xem như không có” mà chữ “thà” ở đây
có nghĩa là “không bỏ đi được”. Nếu người ra đi ngày ấy xem mẹ như lá, chị như
bụi và em như ly rượu cay thì người đó không đáng để đưa vào thơ. Ta hãy đọc
một đoạn thơ có chữ “thà” trong bài “Khúc Tình Buồn” của Nguyễn tất Nhiên để
hiểu thêm về chữ “thà” của Thâm Tâm: “Người từ
trăm năm/ về qua sông rộng/ ta ngoắc mòn tay/ trùng trùng gió lộng/ thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không...”. Ta thấy rằng, khi người yêu qua
sông, Nguyễn Tất Nhiên ngoắc mòn tay gọi người yêu trong vô vọng. Lúc đó nhà
thơ càng dùng chữ “thà” thì càng đau đớn gấp bội. Tình yêu lúc đó càng mảnh
liệt đến nỗi nhà thơ muốn “Thà như giọt mưa” thì vẫn còn có để đến với em hơn
là không chi hết. “Thà” của Nguyễn tất Nhiên và Thâm
Tâm là từ ngữ đã vượt ra ngoài nghĩa của cái chữ thường tình. Nó khẳng định một tình yêu mảnh liệt với người yêu trong thơ
Nguyễn Tất Nhiên và nó cũng khẳng định một tình yêu mảnh
liết với mẹ, với chị, với em trong thơ Thâm Tâm.
Gần đây có ý kiến cho rằng “Mức độ nổi tiếng của “Tống Biệt Hành” không
tương xứng với giá trị nghệ thuật của nó vì các lý do sau:
- Được Hoài Thanh là nhà
phê bình danh tiếng ưu ái giới thiệu trong “Thi Nhân Việt Nam”. Do đó người sau
vì uy tín của Hoài Thanh và “Thi Nhân Việt Nam” cứ thế ca ngợi, tán dương theo.
- Được cả chính quyền miền
Bắc và miền Nam Việt Nam cần người lên đường phục vụ cho chế độ nên giúp sức
phổ biến vì lý do chính trị.
- Được đưa vào nhà trường giảng dạy nên thầy giáo, học sinh
cứ tán tụng, không dám bày tỏ ý kiến đối nghịch vì sợ bị trù dập.”
Nhận
xét như thế tôi cho là quá bất công với Tống Biệt Hành vì:
- Hoài
Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn “Tống Biệt Hành” để
đưa vào “Thi Nhân Việt Nam” với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ
của các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho “Tống
Biệt Hành” có giá trị nghề thuật cao. Truyện Kiều của Nguyễn Du mà còn có người
dám chỉnh sửa lại thì “Tống Biệt Hành” là cái gì mà 75 năm qua mọi người nhắm
mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh. Điều đó không thể nếu tự “Tống Biệt Hành”
không có giá trị ngang tầm với danh của nó.
- Chình
quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975 có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ
mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi một bài thơ “Tống Biệt Hành” nói về một
sự ra đi vu vơ không mục đích rõ ràng.
- Bài
thơ được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định
giá trị nghệ thuật cao của bài thơ. Nhiều năm qua kể từ khi bài thơ được giảng
dạy đến nay, không có dư luận nào chê trách việc giảng dạy “Tống Biệt Hành”. Điều
đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật của “Tống
Biệt Hành” được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác, đối nghịch
trong công luận.
Thật
ra với thời gian 75 năm, kịnh nghiệm cho ta thấy có nhiều tác phẩm hời hợt,
được vinh danh gượng ép vì một lý do nào đó đã lần lược mai mọt hết với thời
gian rồi. Riêng “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm, nó vẫn còn sống thắm tươi trên
diễn đàn văn học và trong lòng nhiều thế hệ. Nó không chết đâu, và mức độ nổi
tiếng của nó rất tương xứng với giá trị nghệ thuật của chính nó vì “Tống Biệt
Hành” là khúc ca tiễn biệt rất hay mà tiễn biệt thì ở thời đại nào cũng có xảy
ra.
CHÂU THẠCH
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét