|
Phác thảo bìa sách
9 THẬP KỶ TÂN NHẠC VN
Tác giả tự trình bày
|
Tôi mê nhạc Trịnh Công Sơn
từ tuổi thiếu niên, nhưng hồi đó, vì còn nhỏ nên dù biết và thích nhưng ít hát những ca khúc viết cho tình yêu
và viết về thân phận của anh, chỉ
thường hát những ca khúc phản chiến và du ca của anh được các huynh trưởng
hướng đạo (scout master) tập cho chúng tôi, những hướng đạo sinh (scout boy)
để dùng làm nhạc sinh hoạt hát tập thể
của thiếu đoàn.
Đó là những bài: Huế -
Sài Gòn - Hà Nội, Việt Nam ơi hãy vùng lên, Nối vòng tay lớn, Dựng lại người,
dựng lại nhà, Dân ta vẫn sống, Ta thấy gì đêm nay,
Bài ca dành cho những xác người, Gia tài
của mẹ, Đồng dao hòa
bình v.v… Vài năm trước ngày Thống
nhất, khi trở thành huynh trưởng hướng đạo, tôi lại tập cho thiếu sinh của mình
những bài hát ấy của anh và cả những bài cùng dòng nhạc ấy anh viết sau đó như Chưa mất niềm tin (1972)… và mới mê hát tình khúc,
nhạc thân phận của anh.
Nhưng tôi gặp anh rất sớm, khoảng hè năm 1965, năm 1966 gì đó. Hồi đó,
khi Mỹ thành lập vùng Phi quân sự (DMZ)
ở vùng giới tuyến, sát vĩ tuyến 17, phía
Nam sông Bến Hải, rải thuốc khai quang để diệt cây cỏ và cày xới cả vùng phía
bắc và tây Quảng Trị, đồng bào quận Trung Lương, quận được tách ra từ quận Gio
Linh gồm ba xã Trung Sơn, Trung Hải, Trung Giang trở thành quận cực bắc tỉnh
Quảng Trị cũ, bị dồn lên Khu định cư Tân Lâm, quận Cam Lộ Quảng Trị. Lúc ấy,
anh tham gia Chương trình Công Tác Hè dành
cho giáo chức trẻ, thanh niên, sinh
viên, học sinh với sự tham gia của nhiều hội đoàn thanh niên thời đó như Hướng Đạo,
Thanh Sinh Công, Gia Đình Phật Tử, Thiếu nhi Thánh thể... tại trại Công trường Thanh niên Giới tuyến ở quận
Cam Lộ, Quảng Trị. Các anh xây dựng nhà, phát thực phẩm, chăm sóc y tế, làm các
công tác “dân vận” như an ủi di dân, tập hát, sinh hoạt thiếu nhi… cho đồng bào
di cư đang thiếu thốn đủ thứ và đang hoảng hốt vì chiến
tranh tàn khốc, đang buồn khổ vì nhớ quê, vì ruộng đồng tan nát…
Còn
tôi là hướng đạo sinh trong tỉnh Quảng Trị cũng được đi theo thiếu đoàn của
mình làm công tác cứu trợ, giúp đỡ di dân. Tôi gặp anh và có nói chuyện với
anh ở đấy, nhưng gặp anh không lâu, vì
anh ở lại công trường vài ngày rồi bận việc, phải vào lại Huế. Nhưng vì đã mê
nhạc anh nên rất nhớ hình ảnh anh, người gầy gầy, dong dỏng, mái tóc bồng bềnh, đôi mắt rất
sáng nằm sau cặp kính dày, nụ cười hiền hậu, giọng nói êm nhẹ, tác phong chuẩn
mực, trông dáng dấp anh có vẻ đạo mạo như một thầy hiệu trưởng trường tiểu học
tỉnh lỵ. Mà anh từng làm giáo viên tiểu học thiệt, dạy ở Bảo Lộc, sau khi tốt
nghiệp trường Sư phạm Quốc gia Qui Nhơn. Ấn tượng nhất đối với thiếu sinh chúng
tôi là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, lúc đó là trưởng Du ca Việt Nam. Tại đây, trại
Công trường Thanh niên Giới tuyến,
anh sáng tác tại chỗ ca khúc “Đường
về công trường” và đích
thân tập tại chỗ bài hát nầy cho tập thể hướng đạo sinh chúng tôi. Bài hát gồm
có một câu tốp đế (nửa tốp ca hát liên tục): Đường về công trường là đường
về quê hương... và 3 phiên khúc (dành cho nửa tốp ca còn lại) nến khi hát
hên nghe rất nhộn nhịp, rộn rã. Ca từ có mô tả đến những khó nhọc của người dân
vùng đất sỏi đá, khô cằn, nhưng tràn đầy lạc quan yêu thương. Bây giờ chúng tôi
còn nhớ, nhưng rất tiếc là ít người biết bài hát nầy
Đường về công trường là đường
về quê hương...
1. Này những miếng đất như
bấp bênh dưới cơn mưa tràn
Hoặc đã nứt vỡ và khô cứng
đến tê bàn chân
Là những miếng đất đã bao năm
chan hòa nước mắt
Là quê hương tôi, là quê
hương tôi
2.
Này những khốn khó ta có nhau lúc vui hay buồn
Mồ
hôi rơi tuôn tựa như nước tưới lên mầm ươm
Tình như cây non đã vươn lên
trong niềm yêu mến
Là
quê hương tôi, là quê hương tôi
3. Tình thân anh em đã đắp
nên biết bao công trường
Vì ta thương nhau là thương
hết đám dân khổ đau
Tìm đâu yên vui trên quê tôi
dẫu chiều, mai, tối
Là quê hương tôi, là quê
hương tôi.
Sau ngày thống nhất, thời
bao cấp, thỉnh thoảng tôi mới gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở TP HCM. Về tài hoa
thì anh và tôi một trời một vực, nhưng về mặt nhân sinh quan thì anh em có vài
điểm hợp nhau, như cùng theo quan điểm chủ nghĩa dân tộc thuần túy và chủ nghĩa
nhân văn truyền thống (tin tưởng, trân trọng, yêu thương, bênh vực… con người).
Anh em ngồi uống rượu đế trắng hoặc rượu đế Cây Lý có màu hành tím, anh vốn ít
nói, tôi lại nhỏ tuổi hơn anh đến hơn anh đến hơn một con giáp, nên được ngồi
với bậc tài hoa, bề trên là cảm thấy
mừng vui, vinh hạnh lắm rồi, đâu dám nói nhiều trước bậc trưởng thượng như anh.
Trừ lúc quá xỉn! Nhưng cũng phải có chuyện để nói chứ, không lẽ uống hoài, sức
đâu mà chịu nổi! Anh em thường nói chuyện về văn học, nghệ thuật, về thơ và ca
từ trong nhạc. Thường nhắc đến những người bạn thân của anh, như các họa
sĩ: Bửu Chỉ, Đinh Cường, Trịnh Cung, nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà thơ Bùi Giáng..., đến
những nhạc sĩ tài hoa ở miền Nam như: Phạm Duy, Trần Quang Lộc…, đến những nhạc sĩ miền Bắc mà anh quý
và quý anh, có mối thâm tình với anh như: Văn Cao, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Tiến…
Nhưng có một lần say quá,
tôi dám “múa rìu qua mắt thợ”, dám nói
chuyện với anh về nhạc điệu, giai điệu, nhịp điệu, hòa âm, phối khí… là những
khía cạnh thuộc lảnh vực chuyên môn cao và sâu của âm nhạc. Về nhà,
tỉnh rượu, tôi thấy “quê” lắm, ân hận, áy náy mãi. Không ngờ lần gặp lại, khi
tôi ngỏ lời xin lỗi, anh lại xua tay và nói một câu mà tôi chỉ nhớ đại ý chứ
không nhớ nguyên văn nên không dám trích dẫn trực tiếp ra đây. Đại khái, anh
nói rằng, anh rất ngạc nhiên, tưởng rằng tôi chỉ biết dạy học, làm thơ, viết
văn, làm báo thôi, không ngờ cũng “chịu
khó học hỏi” về âm nhạc! Tôi mừng
rơn, “chịu khó học hỏi” mà bậc thiên
tài âm nhạc như anh ban cho cũng là lời khen rồi! Lời khen ngon hơn rượu đế
đang uống làm tôi muốn ngất ngây say luôn! Tôi không ngờ rằng, không những được
anh rộng lượng tha thứ mà còn ban thưởng hậu hỹ thế!
Lần cuối tôi
gặp được anh là khoảng một năm trước khi
anh mất (01.4.2001). Chiều đó, đến gặp anh cùng tôi có người bạn thân của
tôi là Phong Hồ - Lê Viết Dương, một con
người tài hoa phụ trách các Chương trình xã hội của nguyệt san Đại Đoàn Kết: Hội thi bơi toàn quốc người
cao tuổi, Học bổng con ngoan trò giỏi, Con cháu hiếu thảo, Top ten hàng VN được
người tiêu dùng yêu thích, Các hội thơ Đường báo Đại Đoàn Kết toàn quốc…
Điểm hẹn là nhà hàng rất sang trọng và thanh lịch của cô Trịnh Hoàng Diệu, em
ruột anh, ở quận 1, TP HCM, hình như tên là QUÁN
TRỊNH thì phải. Vì là chuyện gần nhất trong kỷ niệm giữa hai anh em, hơn
nữa hôm đó tôi “xỉn” quá thành “hư” quá, nên tôi nhớ rất rõ đến chi tiết từng
lời nói, từng hình ảnh, từng cử chỉ… trong buổi gặp anh lần cuối cùng nầy.
Giữa tiệc
rượu, anh vừa đàn guitar thùng vừa hát cho chúng tôi nghe bài “NHƯ MỘT LỜI CHIA TAY” mà anh vừa sáng tác, và sau nầy tôi mới biết đó là
ca khúc cuối cùng của anh:
1.
Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân
nhẹ nhàng như mây
Chút
nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép
lại từng đêm vui
Đường
quen lối từng sớm chiều mong
Bàn
chân xưa qua đây ngại ngần
Làm
sao biết từng nỗi đời riêng
Để
yêu thêm yêu cho nồng nàn
Có
nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên
cạnh đời tôi đây
Có
chút tình thoảng như gió vội
Tôi
chợt nhìn ra tôi
2.Muốn
một lần tạ ơn với đời
Chút
mặn nồng cho tôi
Có
những lần nằm nghe tiếng cười
Nhưng
chỉ là mơ thôi
Tình
như nắng vội tắt chiều hôm
Tình
không xa nhưng không thật gần
Tình
như đá hoài nỗi chờ mong
Tình
vu vơ cho ta muộn phiền
Tiếng
thì thầm từng đêm nhớ lại
Tưởng
chỉ là cơn say
Đóa
hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như
một lời chia tay
Tôi
không bao giờ quên hôm ấy. Ca từ bài hát quá “thiền”, thiền hơn cả bài rất
thiền “Ở trọ” của anh mà tôi
thường hát một mình khi buồn thương, đơn lẻ trước đó. Giai điệu nghe như tiếng mõ cầu kinh trong vào buổi sớm
trong veo của bài hát như lý giải sự bình thản của anh với mọi nỗi buồn lẫn
niềm vui, như thể điều gì tồn tại là đều có lý cả, nhưng sự đời ngẫm ra cũng chỉ là những bọt bèo vô hình vô
tướng. Nhưng "Như một lời chia tay" cũng rất “đời”, đời hơn cả ca khúc "Cát
bụi" của anh mà tôi thường nhẩm mỗi lúc “liêu xiêu”, “lăng lắc”.
Lạ quá, hai thái cực đồng thời hiện hữu trong một ca khúc, rất thiền mà rất
đời: "Tình như nắng vội tắt chiều
hôm", nhưng để lại nỗi mong nhớ thành niềm đau da thịt: "tình vu vơ sao ta muộn phiền"; đã
nói lời chia tay để "thân nhẹ nhàng
như mây", mà trong lòng vẫn còn xao động, ngóng trông, tiếc nhớ:
"có những lần nằm nghe tiếng cười,
nhưng chỉ là mơ thôi"! Một thoáng “vu vơ” những “muộn phiền”, “ngại
ngần”, “rớt lại” “chút tình” “nồng nàn”,“mặn nồng”,
“chờ
mong”, lại
hòa tan trong “mỏng manh”, hư
vô! Nhưng “từ nay khép
lại”, trả lại cho đời hết cả đam mê khổ đau lẫn hào quang hạnh
phúc. Ngoài các ca khúc phản chiến, nếu chia
nhạc Trịnh thành hai mảng: tình yêu và phận người thì "Như
một lời chia tay" đứng ở giữa đó, vừa rất tình, lại rất đời, như
một lời vấn an cho thân phận, biết tình yêu là hữu hạn và hiện hữu là những lần
ra đi vội vã sau những yêu thương…
Hôm ấy, với
giọng khàn mà trong, ngọt mà xót, anh hát như chuyện trò, chân thành trải nổi
lòng của mình cùng thân hữu, “như một lời
chia tay” cuối cùng.
Nghe anh hát xong, lặng người một lát,
uống thêm vài ly, khi say rồi tôi đùa
vui: “Khép
lại từng đêm vui, thì hợp với những hẹn hò rồi.. Nhưng theo em, nếu là khép lại từng cơn say, thì hợp với anh, với những cuộc nhậu hơn…”.
Anh cười vui, nhẹ nhàng, tế nhị: “Ừ, hợp
lắm. Cảm ơn Minh Khoa, nhưng ca sĩ đã lỡ hát như thế rồi, không sửa được nữa!”.
Anh và Lê
Viết Dương đề nghị tôi đọc thơ về tình bạn, tôi đọc bài thơ đời thường “Đêm
Bình Tuy nhớ về Bà Rịa” tôi viết năm 1981. Bài thơ dài có khổ cuối như
sau:
“Bạn bè ơi, thiếu vắng một thằng
Chắc
trách lắm, mà thông cảm lắm
Ôi
tình bạn đơn sơ, đằm thắm
Sống
mỗi ngày tôi lại hiểu thêm ra
Đêm
Bình Tuy… chợt nhận ra ta…”
Đây là lần đầu tiên anh
nghe bài thơ nầy. Anh nhận ra và nhận
xét về sự giống nhau đến kỳ lạ về cả
từ ngữ lẫn ý tứ trong câu kết của bài thơ: “Đêm Bình Tuy… chợt
nhận ra ta” và câu kết
của của đoạn 1 bài hát: “Tôi chợt
nhìn ra tôi”. Và
anh cười đùa: “Tư tưởng lớn
gặp nhau ở đỉnh cao thôi!”
Hôm đó, anh uống ít, có
lẽ do sức khoẻ. Chai rượu Tây mà bạn thân chúng tôi, GS-TS Nguyễn Hữu Liêm ở Mỹ
về tặng, Lê Viết Dương và tôi “cưa” hết, nên hai đứa tôi say mèm. Khi anh và em
gái, cô Diệu tiễn hai đứa ra cổng, đến sảnh,
nhân thấy bên vách trái treo bức ký họa, có chú thích: “HS Bửu Chỉ, người bạn thân
nhất của Trịnh Công Sơn”, tôi lại
bộc trực đến mức “quậy tới bến” luôn, cự cô Diệu về việc “dựa hơi”.
Nhưng đó là
lần gặp gỡ cuối cùng rồi! Không còn dịp để xin lỗi anh nữa! Chỉ biết kể lại câu
chuyện để tỏ bày nỗi ân hận muộn màng.
Riêng Hồng
Diệu thì tôi có dịp để xin lỗi cô. Anh Sơn mất 01.4.2011, thì giữa tháng 12 năm
đó, Lê Viết Dương mất. Nguyễn Hữu Liêm từ Mỹ bay về tiển đưa bạn. Tôi và Liêm
lại ghé Quán Trịnh như để tìm lại bóng dáng anh, Hồng Diệu không những đã quên
chuyện cũ mà còn xách cả chai rượu ra mời hai đứa.
Khi anh mất,
tôi bần thần, thẫn thờ cả tháng. Ngày nào cũng vài lần tự hát hoặc nghe laị
giọng anh trong bài "Như một lời chia tay" qua đĩa
nhạc. Đến nổi phụ nữ trong nhà, vợ và con gài tôi cứ lo lắng, ái ngại cho “sức
khỏe tinh thần” của chồng, cha mình…
Một điều ân hận với anh nữa. Tôi không có một tấm ảnh nào
chụp chung với anh để làm kỷ vật tưởng nhớ anh. Hồi đó, còn trẻ nên tính tình
cũng cực đoan lắm. Thấy người ta hay xun xoe chụp hình với những người nổi
tiếng thì mình né. Nhiều văn nghệ sĩ thành danh về Bà Rịa chơi, nay đã khuất
bóng, tôi cũng không có tầm hình nào chụp chung với họ. Thậm chí, nhà thơ Hữu
Loan từ Thanh Hóa vào Bà Rịa hai lần, một cái tết năm 1988 và một kỳ hè 1989,
ăn ở chung cả tháng, tôi cũng chẳng có tấm hình nào với ông làm lưu niệm cả!
Lê Thiên
Minh Khoa
(Trích trong
phần PHỤ LỤC cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC
TÂN NHẠC VIỆT NAM” - nghiên cứu & nhận định của Lê Thiên Minh
Khoa - sắp xuất bản, 2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét