|
Bìa "9 thập kỷ tân nhạc Việt Nam"
Lê Thiên Minh Khoa |
Kỳ 2: QUẢNG BÁ CA KHÚC THỊ TRƯỜNG HIỆN
NAY.
1. Thực trạng:
Góp phần làm nên thị trường âm nhạc giải trí rối ren, hỗn độn, lợn cợn, chất lượng kém, thẩm mỹ lùn
hiện nay có “công” lớn của các nhà sản
xuất, tổ chức biểu diễn, quãng bá âm nhạc, trong đó có “công” không nhỏ
của giới truyền hình, báo chí và các
phương tiện truyền thông đại chúng khác.
Đã qua rồi thời hoàng kim của chương
trình Bài hát Việt, một sân chơi sáng tác âm
nhạc hiếm hoi trên sóng truyền hình từng giới thiệu nhiều gương mặt trẻ tài
năng và bước đầu có phong cách riêng như Nguyễn Đức Cường, Lê Cát Trọng Lý,
Phạm Toàn Thắng, Nguyễn
Vĩnh Tiến, Lê Minh Sơn, Lưu Thiên Hương, Giáng Son, Đức Nghĩa… Và sự ra đi lặng lẽ của Bài hát Việt, có người bi quan cho rằng
đó cũng là dấu chấm hết cho nỗ lực hiếm hoi trong việc tìm kiếm các hướng đi
mới cho âm nhạc đương thời. Thế vào đó, là sự ồn ào của các trò chơi truyền
hình (gameshow) về âm nhạc đình đám, như Giọng
hát Việt, Thần tượng âm nhạc, Nhân tố bí ẩn…
Trái
ngược với sự vắng bóng của các cuộc thi sáng tác âm nhạc, sự nở rộ của nhiều gameshow, liveshow âm nhạc với xu hướng
giải trí bình dân, có phần dễ dãi dường như đang chiếm lĩnh nhiều phương tiện
thông tin đại chúng. Một trong những trào lưu “đang lên”, gây nhiều tranh cãi
trong dư luận thời gian qua là “Bolero trỗi dậy” với sự ra đời của hàng loạt
các gameshow có tên gọi na ná nhau: Thần
tượng Bolero, Song ca cùng Bolero, Solo cùng Bolero, Tình Bolero, Tình Bolero
hoan ca, Kịch cùng Bolero…
Một
số cuộc thi âm nhạc khác lại trà trộn, giả dạng, đánh tráo khái niệm được gọi
bằng tên gọi khác thời sự hơn, “cao quý” hơn, và có vẻ hợp với chủ trương của
nhà nước hơn kiểu như: Ca khúc Quê hương,
Quê hương Tình mẹ…, tuy không gắn
“mác” bolero nhưng đội hình ban giám khảo ngồi trên “ghế nóng” và thường “uýnh
giá” (đánh giá) diễn viên như “thánh phán” đều chủ yếu nổi lên từ dòng nhạc
này, vì thế phần lớn thí sinh đã lựa chọn giải pháp an toàn bằng việc hát…
bolero! Sự thái quá trong việc quảng bá như thế dẫn đến tình trạng: một dòng
nhạc bình dân, ít được đánh giá cao tại chính mảnh đất từng sản sinh ra nó,
bolero đã bất ngờ trở thành trào lưu được một bộ phận ca sĩ và khán, thính giả
ở Việt Nam nhiệt tình hưởng ứng. Điều này sẽ không có gì đặc biệt nếu như
bolero không phải là một dòng nhạc “giẫm chân tại chỗ”, vì dù đã có lịch sử
hình thành hơn 60 năm mà số lượng sáng tác không nhiều, không có nhiều sáng tạo
từ giai điệu, phối khí đến ca từ và phong cách biểu diễn. Và nội dung của hầu
hết các bài hát bolero chỉ quẩn quanh những chuyện tình ngang trái, đẫm nước
mắt. Vì vậy, nhận định của Tùng Dương, ca sĩ nổi tiếng với nhiều giải thưởng âm
nhạc uy tín: “Bolero chỉ mang tính hoài
niệm, không mang tính chất sáng tạo, phát triển nền âm nhạc. Già trẻ, lớn bé mà
đều đắm đuối với bolero thì đúng là một sự thụt lùi” tuy có làm mất lòng
nhiều người trong giới giải trí nhưng đã đề cập một cách thẳng thắn tình trạng
“nghèo nàn trong sáng tạo” trong đời sống âm nhạc Việt Nam đương đại.
Nhân nhắc đến, nói
thêm về điệu bolero và nhạc vàng. Nhạc vàng ở Miền Nam trước 1975 thường dùng các
thể điệu boléro, rhumba, ballade, slow, slow rock, mà
bolero là phổ biến hơn cả. Thể điệu bolero VN có nhịp rất chậm, khác bolero của Tây Ban Nha
hay Nam Mỹ có nhịp nhanh hơn, gần như rhumba. Vì thế, người ta vẫn quen gọi ca
khúc bolero VN là nhạc vàng, tức âm nhạc trữ tình hay lãng mạn, bởi giai điệu
chậm buồn của nó... Bolero rất hợp
dân ca Nam bộ và giới bình dân Nam bộ, những người hát dân ca Nam bộ từ nhỏ và
thể loại nhạc này hợp với trình độ của họ, nên họ là những người chuộng nhạc vàng hơn cả.
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của nhạc vàng là: Tình - Lính và Quê hương.
Nhưng, nhạc bolero xưa ở miền Nam có nhịp điệu chậm buồn, sắc thái tình cảm
thường là yêu thương, tiếc nuối, da diết… chứ không phải quá sướt
mướt, sến sẩm, uỷ mị, quằn quại, khổ đau, bi sầu, rên rỉ… mới ra chất bolero
như các ca sĩ ngày nay thể hiện, khi bị khai thác “quá đà” và “biến dạng” thảm
hại trên truyền hình, nhạc hội, sàn diễn và băng đĩa của các nhà sản xuất. Dòng
nhạc nào cũng đều có những giá trị của nó, bolero cũng có lớp công chúng riêng
và những giá trị riêng, nhất là những ca khúc có ca từ hay đẹp, mang tình văn
học. Nhưng vì chạy theo lợi nhuận mà cách khai thác và thể hiện dòng nhạc
bolero “biến thái” như hiện nay đã không truyền đạt cho công chúng những giá
trị cốt lõi và đúng đắn của dòng nhạc này, dẫn đến cái nhìn sai lệch về bolero
đầy tai hại: nhạc bolero bị đánh đồng với
nhạc sến.
Theo dõi trên bảng xếp
hạng ca khúc mới của một số website âm nhạc nổi tiếng thời gian qua, vị trí
“độc tôn” thường thuộc về một số bài hát không mấy xuất sắc, cho thấy “mảnh
đất” này còn quá nghèo nàn và thiếu tính cạnh tranh. Điều đó trái ngược với các
bảng xếp hạng âm nhạc nước ngoài, bởi ở đó sự thay đổi ngôi vị liên tục của
nhiều ca khúc, giọng ca, nhóm nhạc cho thấy một đời sống âm nhạc thật sự sôi
động và phát triển. Sự chiếm lĩnh của bolero cùng các trào lưu K-pop (nhạc pop Hàn Quốc), C-pop (nhạc pop tiếng Trung) trên thị
trường âm nhạc Việt Nam hiện nay đang đặt ra câu hỏi về sự yếu kém của nhạc trẻ Việt hiện nay.
Rõ
ràng là, khâu sản xuất, quảng bá và tổ chức biểu diễn âm nhạc đã thao túng thị
trường âm nhạc đương thời. Năm 2004, nhạc ngoại lời Việt chiếm 30% số ca khúc
phổ biến trong băng dĩa nhạc, theo thống kê của phòng ca múa nhạc Sở VHTT
TPHCM. Trên sân khấu biểu diễn, số ca khúc nhạc ngoại lời Việt chiếm gần 50 %.
Ngoài ra, những giải thưởng
âm nhạc cuối năm từ thượng vàng hạ cám, hàng trăm tác phẩm âm nhạc được xếp
hàng tôn vinh lại khiến chúng ta có cảm giác đời sống âm nhạc lòe loẹt, sặc sỡ
nhưng ít giá trị thực chất. Giải thưởng nhiều, khiến sự tôn vinh bị lạm phát và
trở nên hình thức.
Trong
nền kinh tế thị trường, âm nhạc trở thành hàng hóa nên mọi hoạt động của guồng
quay Showbiz bao trùm lên đời sống âm nhạc. Vì vậy, một thời gian dài, đời sống
âm nhạc rơi vào tình trạng sôi động bề mặt nhưng thiếu chiều sâu, thiếu những
giá trị bền vững.
Tình
trạng bát nháo trong thị trường âm nhạc tác động đến tất cả đối tượng, từ nhạc
sĩ, ca sĩ, đến công chúng và dần làm thẩm mỹ âm nhạc của giới trẻ trở nên lệch
chuẩn..
2. Nguyên
nhân:
Tác giả Cao Minh trong
bài viết “Vùng trũng” của âm nhạc Việt Nam đăng trên Thế giới và Việt Nam ngày 03/08/2014 có đưa
ra mấy nguyên nhân của
thực trạng nầy. Xin bổ sung vài nguyên nhân nữa và phân tích thêm.
Nguyên nhân của thực trạng nầy thì nhiều,
ngoài sự “vô tư” của một số nhạc sĩ và ca sĩ. Nhưng trước hết, là thiếu sâu sát,
thiếu trách
nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật; đã lơi lỏng,
không đủ khả năng để đưa hoạt động âm nhạc
đi đúng chiều hướng tích cực, nhất là sự “thiếu tầm” của một số người lảnh đạo,
quản lý ngành văn hóa ở các điạ phương.
Biểu hiện đầu tiên sự “thiếu tầm” nầy là ngắn về tầm nhìn xa
chiến lược của ngành, thường chỉ
"chạy theo giải quyết sự cố” sau khi báo chí và dư luận lên tiếng. Biểu
hiện kế tiếp là quản lý văn hóa mà hẹp về bề rộng văn hóa, lùn về chiều cao
nghiệp vụ và cạn về chiều sâu cảm thụ nghệ thuật. Đơn cử: Lảnh đạo một Sở VH-TT
tỉnh phát biểu trước hội nghị khi là chủ tri: “Tỉnh mình có kinh tế cao, mà chưa tổ chức được một đêm nhạc bolero như
các tỉnh Miền Tây là hạn chế lớn”. Hoặc một người có trách nhiệm ngành
VH-TT của tỉnh lại phát biểu: “VNS tỉnh
nhà, có người viết lòng vòng khắp nơi, nổi
tiếng toàn quốc, mà không có một chữ, một nốt viết về tỉnh mình là không thể
chấp nhận được”. Trong khi vì có tầm nhìn và am hiểu về văn học- nghệ thuật, trong buổi
Gặp gỡ thường niên giữa Bí thư tỉnh ủy tỉnh nầy với văn nghệ sĩ toàn
tỉnh vào cuối năm 2017, có lảnh đạo các sở, ban, ngành hữu quan tham dự, ông có
câu nói “để đời” mà VSN trong tỉnh thường nhắc tới: “VNS là vốn quý của quốc gia. Tác phẩm của họ có thể viết về
nhân loại, đật nước, các vùng miền khác, miễn là nhân văn và có giá trị. Là vốn
quý của quốc gia, nhưng đã sống trên địa bàn tỉnh ta, thì các cấp Đảng, chính
quyền và các sở, ban, ngành hữu quan phải chăm sóc đời sống vật chất, tình thần và
tạo điều kiện thuận lợi cho VNS sáng tác”.
Thứ hai, là do sự
vụ lợi (hay lợi nhuận) của những người sản
xuất, tổ chức chương trình ca nhạc tạo ra sân chơi, sàn diễn công khai cho
các ca khúc loại kém chất lượng này được
quảng bá tràn
lan trong xã hội. Chính nhạc sĩ Dương Cầm, cũng là một nhà
sản xuất âm nhạc (nhận cúp “Nhà sản xuất của năm” vào đầu năm 2018) cũng công nhận vai trò tối quan trọng của
người
sản xuất âm nhạc:“Đấy là những người có sự định hướng cho ca
sĩ, tác phẩm và cả chính tác giả. Thị trường âm nhạc nằm trong tay của các nhà
sản xuất âm nhạc”.
Thứ
ba, là Hội Nhạc
sĩ Việt Nam là hội chuyên nghiệp, mang tính chuyên sâu và chính thống về âm
nhạc, nhưng những hoạt động cùng tầm ảnh hưởng tới đời sống âm nhạc cả nước khá
mờ nhạt. Mặc dù Hội có chủ trương “giáo
dục thẩm mỹ âm nhạc cho công chúng, đặc biệt là công chúng trẻ, để mọi đối
tượng có thể thưởng thức các sản phẩm âm nhạc trong môi trường nghệ thuật trong
sáng, lành mạnh…, kiên quyết chống xu hướng nghiệp dư hóa trong nghệ thuật,
loại trừ thói lai căng, bắt chước tùy tiện, dễ dãi trong việc sáng tác, biểu
diễn và hưởng thụ âm nhạc. Coi trọng và đề cao tính chuyên nghiệp trong sáng
tác, biểu diễn, phê bình lý luận và đào tạo.” (NS Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ VN - Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 60 năm
thành lập Hội Nhạc sĩ VN, 17.12.2017 tại Hà Nội).
Thứ
tư, hệ thống truyền thông (truyền hình, phát thanh, báo chí, mạng...) trong
thời đại thông tin toàn cầu và kinh tế thị trường đã vì lợi ích cục bộ, thông
tin một chiều hoặc lệch về một số vấn đề
trong đời sống âm nhạc. Một số tờ báo cũng cổ xúy xu hướng âm nhạc có giá trị thẩm mỹ
thấp khi ngày ngày đăng tải tin tức vô
bổ về đời tư của ca sĩ trẻ, về các scandal, về mấy chuyện tình ái đáng giấu đi
hơn là khoe ra... để thu hút đông độc giả. Còn hệ thống truyền hình vì mục tiêu
thương mại, quảng cáo, nhiều ca khúc, chương trình biểu diễn âm nhạc thiếu thẩm
mỹ, chất lượng nghệ thuật kém vẫn được giới thiệu, lăng xê trên các kênh truyền
hình nhà nước (do các nhạc sĩ có văn hóa và tay nghề cao phụ trách!) ở các khung giờ vàng, hoặc ngày càng có nhiều
hơn các cuộc chơi ca nhạc, biến âm nhạc thành những trò chơi, vô hình chung hạ
thấp tính giáo dục, tính nhận thức, tính thẩm mỹ, mà chỉ nghiêng hẳn sang lĩnh
vực giải trí đơn thuần. Rổi thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm kiếm tài năng ca nhạc
mà các chương trình này được tài trợ nên chất lượng phải chiều theo thị hiếu
bình dân của doanh nghiệp tài trợ.
Thứ
năm, là do ý thức và trách nhiệm
của người có trách nhiệm đối với đời
sống âm nhạc hiện nay. Một ví dụ nhỏ mà điển hình: các cuộc thi Sao Mai của truyền hình quốc gia bao
nhiêu năm nay vẫn gọi là: "phong
cách Nhạc nhẹ", "phong cách Thính phòng" và
"phong cách Dân ca" mà các nhạc sĩ, thậm chí cả giáo sư, tiến sĩ
âm nhạc ngồi trong Hội đồng giám khảo vẫn cứ
điềm nhiên như không hề biết có gì đó sai của nhà đài phát động: Trong
văn học nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng, phong cách là khái niệm chỉ đặc điểm nổi trội, ổn định và có chất
lương trong sáng tác của tác giả hoặc
trong cách thể hiện của cá nhân hoặc nhóm nghệ sĩ, riêng trong âm nhạc, 3 loại
nhạc trên chỉ được gọi là “dòng”: “dòng
nhạc Thính phòng", "dòng nhạc nhẹ", "dòng nhạc mang âm
hưởng Dân ca". Rồi, truyền
thông, báo chí vẫn vô cảm, điềm nhiên tuyên truyền cái sai đó. Đây thực sự là
điều nguy hại bởi nó góp một phần định hướng, hướng
dẫn thị hiếu thưởng thức của người dân.
Cuối cùng, là thiếu một sự giáo dục thẩm mỹ nói chung và thẩm mỹ
âm nhạc nói riêng mang tính hệ thống đối với học sinh, sinh viên và đối với
toàn xã hội (nằm trong chiến lược phát triển con người, đất nước của những nhà
hoạch định) trong một nền giáo dục lạc hậu. Vì thế, tình trạng xuống cấp của ca khúc hiện nay khó
có thể giải quyết rốt ráo, triệt để. Và cứ như vậy, vấn đề càng trở nên nguy
hại hơn, vì ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị hiếu thẩm mỹ nói chung, thị hiếu âm
nhạc nói riêng của vài thế hệ.
(Kỳ
tới: CA SĨ THỊ TRƯỜNG
NGÀY NAY).
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN
NHẠC VIỆT NAM” - nghiên cứu & nhận định của Lê Thiên Minh Khoa - sắp xuất bản, 2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét