|
Bìa “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam” |
Sau Thống nhất, trong nước các dòng nhạc
không cách mạng (trừ một số ca khúc thuộc các dòng nhạc: phản chiến, du ca và nhạc sinh hoạt cộng đồng)
bị cấm hoàn toàn vì không phù hợp với chủ
trương, các ca sĩ được khuyến khích chuyển
sang hát nhạc truyền thống cách mạng (nhạc đỏ).
Các dòng nhạc tiến chiến, tình
khúc, nhạc vàng... đều coi bị là nhạc vàng và hạn chế lưu hành. Nhạc Cách mạng
có sự chuyển biến lớn với sự phát triển mạnh mẻ về nhiều mặt:
mở rộng nội dung- đề tài; lực lượng sáng tác đa dạng hơn, phong phú thêm bởi nhiều thế hệ nhạc sĩ thuộc nhiều dòng nhạc
quy tụ lại; công chúng đông đảo hơn; giai điệu cách tân hiện đại hơn;
hoà âm phối khí chuyên nghiệp hơn....
Lực lượng nhạc sĩ rất
hùng hậu và đa dạng bởi đất nước thống nhất đã quy tụ lại nhiều nguồn sáng tác:
Các nhạc sĩ Việt Nam dân chủ cộng hòa, của Mặt trận giải phóng, các nhạc sĩ du
ca, phản chiến, nhạc trẻ… ở miền Nam, rồi nhiều nhạc sĩ thuộc dòng tình khúc và
nhạc vàng, sau vài năm đầu “lặng thinh” bắt đầu sáng tác trở lại. Ngoài ra,
phải kể thêm sự đóng góp của đông đảo các nhạc sĩ trẻ có thể đã sáng tác trước
1975, nhưng thực sự trưởng thành, được
biết đến trong thời hậu chiến này: Võ Công Anh, Nguyễn Hải, Hoàng Lương, Vũ
Hoàng, Nguyễn Văn Hiên, Trương Minh, Phạm Đăng Khương, Thanh Tùng, An Thuyên,
Hoàng Lương, Nguyễn Long, Võ Lê, Võ Công Diên,
Trọng Vĩnh, Quang Lộc, Quang Minh, Trọng Vĩnh, Trần Tiến, Nguyễn Tôn
Nghiêm, Thập Nhất, Phú Quang, Nguyễn Ngọc Thiện, Giáp Văn Thạch, Trần Tích, v.v… Đề tài sáng tác chủ yếu trong 10 năm của ca khúc thời hậu chiến, là:
- Ca
ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh: Viếng lăng Bác (1976-
thơ Viễn Phương) của Hoàng Hiệp; Bác Hồ một tình yêu bao la (1979),
Vầng
trăng Ba Đình (1984) của Thuận
Yến), v.v…
- Tình yêu quê hương đất nước: Dáng đứng Bến Tre (Nguyễn
Văn Tý); Tình đất đỏ miền Đông của Trần Long Ẩn;
Quê Hương (Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân); Đất nước lời ru (Văn Thành Nho); Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh (Xuân
Hồng); Giai điệu Tổ quốc (Trần
Tiến); Bước tiếp những mùa xuân (1976- Nguyễn Phú Yên); Nhịp chèo sông Hiếu (Trần Tích); Nha
Trang mùa thu lại về (1978- Văn Ký); Nơi đảo xa (1979 - Thế Song); Bài ca
không quên, Đất nước (Phạm Minh Tuấn- thơ Tạ Hữu Yên); Việt Nam mãi mãi yêu người (Bùi Công Thuấn); Chiều trên quê
hương tôi (Trịnh
Công Sơn)… Đặc biệt, Nguyễn
Trọng Tạo tìm về chủ đề quê hương để làm đậm tình người với nhiều ca khúc: Làng
quan họ quê tôi (phỏng thơ Nguyễn Phan Hách), Chèo thuyền trên sông Bùng,
Đường về Thạch Nham, Dừa xanh Hoài Nhơn, Tình ca người trồng cỏ, Màu xanh Hương
Sơn, Vầng trăng bến đợi, Tình ca bên một dòng sông, v.v…
- Tình cảm gia đình và tình yêu lứa đôi: Huyền thoại mẹ (Trịnh Công Sơn); Mẹ (Trần Tích);
Người mẹ (Nguyễn Ngọc Thiện); Thuyền và Biển (Phan
Huỳnh Điểu); Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê
Việt Hòa); Tình ca Tây Nguyên, Màu áo
trắng và màu tím Huế, Chia tay với chùa Hương, Hát ru (Hoàng Vân); Về
một tình yêu (Trần Quang Lộc); Gởi nắng cho em (Phạm Tuyên); Chiều
trên bến cảng (Nguyễn Đức Toàn); Gửi lại em, Hương thầm (thơ Phan thị Thanh Nhàn) của Vũ Hoàng, v.v…
- Công cuộc dựng xây đất nước: Đêm rừng Đắc Min (Nguyễn Đức Trung); Em
nông trường, em ra biên giới (Trịnh Công Sơn); Hồ núi Cốc (Phó Đức
Phương); Trị An âm vang mùa xuân (Tôn Thất Lập); Tàu anh qua núi (Phan Lạc
Hoa); Đêm thành phố đầy sao (Trần Long Ẩn); Người đi xây hồ Kẻ Gỗ (Nguyễn Văn Tý); Mùa
xuân từ những giếng dầu (Phạm Minh Tuấn); Ơi cuộc sống mến thương (Nguyễn
Ngọc Thiện); Tình ca Vũng Tàu, Bài ca xây dựng, Bài ca người thợ mỏ (Hoàng Vân), v.v…
- Bảo vệ biên giới Tổ quốc chống xâm lược: Tiếng
súng đã vang trên bầu trời biên giới của Phạm Tuyên; Khúc hát lính biên phòng của Vũ
Hiệp Bình; Tình yêu trên dòng sông
quan họ (thơ Đỗ Trung Lai) của
Phan Lạc Hoa; Gởi em phía sông Hồng, Màu hoa đỏ của Thuận Yến; Chiều dài biên giới, Chiều biên giới (thơ Lò
Ngân Sủn) của Trần Chung; 40 thế kỷ cùng ra trận của Hồng Đăng; Hoa hồng trên điểm tựa, Tổ quốc yêu
thương của Hồ Bắc; Biên giới
trong trái tim ta của Nguyễn Văn Sanh; Ta là thế hệ thứ tư của Lư Nhất Vũ; Hát mãi khúc quân hành, Bài ca người lính của Diệp Minh Tuyền và Bài ca trên đỉnh Pò Hèn được nhiều người biết đến của Thế
Song ca ngợi nữ mậu dịch viên Hoàng Thị Hồng Chiêm đã hi sinh tại Quảng Ninh
trong Chiến
tranh biên giới Việt- Trung năm 1979, v.v…
Cuộc sống mới nẩy sinh
những nhu cầu và thẩm mỹ âm nhạc mới, nhất là đối với lớp thanh niên. Và để
thỏa mãn điều đó, cuối thời đoạn nầy,
nhiều ca khúc nhạc nhẹ ra đời, dù với
tên gọi khác đi. Đó là loại nhạc giải trí dễ dàng được đông đảo công chúng,
nhất là giới trẻ tiếp nhận, yêu thích. Đặc điểm của nhạc nhẹ là nội dung, hình
thức đơn giản, dễ nhớ. Tính chất âm nhạc thường vui tươi, yêu đời. Nhạc nhẹ dính liền với nhạc thời trang, khơi nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, vận
dụng các thể loại nhạc Pop, Ballat, Rock... theo lối cấu trúc
âm nhạc cổ điển châu Âu. Nhiều thể
loại nhạc nhảy múa, sinh hoạt, hành khúc, những bản Overture nhỏ (khúc mở màn)… cũng được xếp vào loại nhạc nầy.
•
CA KHÚC CHÍNH TRỊ CUỐI THẬP NIÊN 70.
Về
sự hình thành của dòng ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam không thể không kể đến vai trò
to lớn của phong trào ca khúc chính trị (CKCT)- một tên gọi khác của nhạc nhẹ, nhạc trẻ vào những năm
cuối thập kỷ 70, đầu những năm 80. Với tính chất gọn nhẹ, năng
động, xung kích, CKCT thời đoạn nầy ra
đời nhằm phục vụ những nhiệm vụ chính trị cấp bách của nhà nước trong “chặng
đường đầu
tiên” của thời kỳ quá độ. Mặt khác, CKCT còn là một loại hình biểu hiện nghệ
thuật quần chúng, bắt kịp với nhịp điệu thời đại, thoả mãn một phần nhu cầu
thẩm mỹ của nhân dân, trước hết là sự đòi hỏi của quần chúng về một thứ nghệ
thuật “hiện thực hoá cuộc sống”.
Ca
khúc chính trị được tập trung sáng tác ở TP HCM. Những nhạc sĩ trước 1975 như Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà, Quốc Dũng... và
những nhạc sĩ trẻ như Nguyễn Ngọc Thiện, Từ Huy, Nguyễn Văn Hiên, Nguyễn Đức Trung, Vũ Hoàng, Lê Văn Lộc, Nguyễn Văn Sanh, Thế
Hiển, Vy Nhật Tảo... với những sáng tác trẻ trung đã
gia nhập phong trào Ca khúc chính trị
và cũng trưởng thành từ phong trào sáng tác nầy. Nhiều
tay đàn, tay trống sừng sỏ của Sài Gòn cũ cũng chỉ hành nghề trong môi trường
CKCT: Mạnh Tuấn, Huỳnh Hiệp, Lý Được, Thanh Long, Hùng Tao Đàn, Bảo Chấn, Bạch
Lý, Mỹ Linh, Huỳnh Háo, Cao Đức, Vũ Văn
Tuyên, Trần Tài, Quốc Dũng, Tùng Châu, Sỹ Đan... Nhiều ca sĩ ngày hôm nay vẫn
còn nguyên danh tiếng hoặc mớinổi lên ở thời đoạn thị trường hóa âm nhạc (1986
trở đi) đều có thời gắn bó với CKCT như: Cẩm Vân, Lệ Thu, Trang Thanh Lan, Lâm
Xuân, Bảo Yến, Nhã Phương, Kim Yến, Ngọc Yến, Hồng Vân, Ngọc Điệp, Trang Kim
Yến, Chung Tử Lưu, Nguyễn Hưng, Thái Châu, Quang
Lý, Tuấn Phong, Cao Minh, Thế Hiển, v.v.…
Rồi, nhiều nhóm ca khúc
chính trị được thành lập,
chủ yếu cũng ở TP.HCM. Đó là mô hình
nhóm đàn - hát như một ban nhạc biên chế nhỏ gồm các thành viên là ca sĩ, nhạc
sĩ trẻ, có thể tự sáng tác (“tự biên”) và tự trình bày (“tự diễn”) theo khuynh
hướng nội dung các bài hát thể hiện phải có chất thời sự, chính trị cùng ngợi
ca tình yêu cuộc sống. Có thể kể ra các nhóm tiêu biểu, gây được ảnh hưởng lớn
trong phong trào thanh niên bấy giờ, được sự cổ vũ nhiệt tình của giới trẻ và
công chúng, được yêu cầu biểu diễn nhiều nơi: Nhóm Rạng Đông (Nhà văn hóa
Thanh niên TP HCM) gồm Cẩm Vân, Chí Hùng (organ của ban The Black cũ), Hồng Danh, Sĩ Thanh, Bạch Lý, Thanh Long (ban The Blue Jets cũ); nhóm nhạc nữ 30 Tháng 4 gồm Kim Phương, Cẩm Vân, Kim Yến, Bạch Lý, Thúy Quang (organ);
nhóm nữ Xí
nghiệp dệt số 8 với Tường Vân (tay trống của The
Blue Stars cũ) và giọng hát của bốn nữ ca sĩ trẻ; nhóm Nữ Sinco với Hồng Hạnh; các nhóm Phong Lan Trắng, Sao Sáng, Hải Âu, Mây
Trắng, Lướt Sóng, Mê Kông, Nắng Hồng, Đại Dương, nhóm Thanh niên xung phong của Nguyễn Đức Trung, Thúy Hồng, Ngọc Bích…,
nhóm Ca khúc Đại học Tổng hợp của
Hoàng Cao, nhóm Ca nhạc dân tộc Phù Sa
với Ngọc Yến, Văn Tài, Ngọc Điệp…, rồi Cửu
Long nữ,
Sinco nam, Hy Vọng, Dây Leo Xanh, Rạng Đông, Bách Việt, v.v…
Cuối
thập niên 70, nhiều nhóm CKCT tham gia Liên hoan CKCT tại Liên xô và các nước
Đông Âu: Bulgaria, CHDC Đức (cũ) và gây
được tiếng vang lớn.
Trong thời gian nầy, có 3 sự kiện tạo cảm hứng và đề
tài sáng tác cho nhiều nhạc sĩ: Phong trào Thanh niên
xung phong lên đường xây dựng đất nước rồi phục vụ hai cuộc chiến tranh chống
xâm lược: cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Ca khúc chính trị về đề tài thanh niên xung phong (TNXP) đưa
khán giả trở về miền ký ức sau giải phóng và khắc họa hành trình vất vả, khó
khăn của thế hệ thanh niên xung phong thời ấy.
Hình ảnh người TNXP trong đời sống và đề
tài, hình tượng TNXP trong ca khúc được yêu thích (trước đó, Cô gái mở đường - 1966- Xuân Giao
viết về TNXP vẫn còn vang mãi đến ngày nay) đến nỗi
đã có rất nhiều bài hát của các nhạc sĩ chuyên nghiệp viết về TNXP như
Phạm Trọng Cầu, Phan Huỳnh Điểu, Lư Nhất Vũ, Trương Quang Lục, Nguyễn Văn Sanh,
Trần Xuân Tiến, Vy Nhật Tảo, Phạm Tuyên, Trần Tiến, Tôn Thất Lập, Phạm Minh
Tuấn, Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn…Vài ca khúc tiêu biểu của họ: Hoàng hôn màu lá (Thanh Tùng); Ngày
mai anh lên đường (Thanh Trúc); Vinh quang con đường TNXP (Trần Long Ẩn); Thành phố tình yêu và nỗi nhớ (thơ Nguyễn Nhật Ánh, nhạc Phạm Minh
Tuấn); Tình ca tuổi
trẻ (Tôn Thất Lập); Tạm
biệt chim én (Trần Tiến); Bài ca TNXP (Phạm Trọng Cầu); Bài
ca TNXP (Hoàng Hiệp); Khúc hát người đi khai hoang (Lư
Nhất Vũ); Là thanh niên xung phong (Phan Huỳnh Điểu); Đào
kênh (Trần Xuân Tiến); Tâm tình người xung kích thanh niên (Nguyễn
Văn Sanh); Một đời người, một rừng
cây (Trần Long Ẩn); Con
kênh ta đào (Phạm Tuyên phổ thơ Bùi Văn Dung); Tự hào lớp tuổi trẻ tiến công (Trương Quang Lục)… Trong đó, được coi là ca khúc điển
hình về TNXP cho đến bây giờ có lẽ là Tình ca tuổi trẻ của nhạc sĩ Tôn
Thất Lập.
Từ phong trào TNXP đã hình thành những nhạc sĩ trẻ trưởng
thành qua những sáng tác mới về đề tài TNXP như Nguyên Anh (Bài
ca kinh tế mới); Nguyễn Đức
Trung (Bài ca sinh hoạt, Em như tia nắng mặt trời, Sẽ qua trong mưa); Nguyễn Đức Tập (Tuyến kinh lửa, Dứt điểm), v.v…
Khi
hai cuộc chiến tranh biên giới nổ ra, TNXP
ra chiến trường, ca khúc về TNXP chuyển đề tài: Lúc đất nước cần, người TNXP
sẵn sàng hy sinh nơi tuyến lửa để bảo vệ đất nước. Giai đoạn này, xuất hiện
những tác phẩm về người TNXP ở biên giới như: Những vết chai cho Tổ quốc, Em đi
cầu cây (Lê Văn Lộc); Trăng treo đỉnh đầu (Lê Đức Du phổ
thơ Cao Vũ Huy Miên); Em ở nông trường, em ra biên giới
(Trịnh Công Sơn); Cô gái thông đường trên biên giới Tây Nam (Nguyễn Nam)… Có
những ca khúc viết về họ, huyền thoại
người TNXP nơi lửa đạn làm công chúng
thực sự xúc động và thành công đến nổi bây giờ nghe lại vẫn còn chảy nước mắt.
Không ai đã nghe mà quên được như giai điệu chậm vừa, trầm buồn, sâu lắng, nhẹ
nhàng mà gợi sâu hình ảnh, tâm tình của người nữ anh hùng trẻ tuổi trong ca
khúc Những bông hoa trên tuyến lửa (Nguyễn Cửu Dũng phổ
thơ Đỗ Trung Quân): “Em là người thanh niên xung
phong/ Không có súng, chỉ có đôi vai cáng thương, tải đạn…”:
Ở giữa rừng đâu có gương soi
Làm sao
em thấy được vết bầm trên má
Chuyến tải
thương về mấy lần trượt ngã
Vì mùa mưa nào chưa dứt ở đây.
Anh bộ đội thương
binh vừa tỉnh lại sáng nay
Đã hỏi thăm em
người cáng thương hôm trước
“Cô ấy ngã mấy lần không đếm được
Mà sao không khóc mới lạ lùng”
Chắc anh
hiểu rồi em ở tấm lòng
Nước
mắt chỉ dành cho người ngã xuống
Nên dù té đau, gai rừng đâm chân buốt
Đâu để vết thương anh rỉ máu hai lần
Em là người thanh niên xung phong
Không có
súng, chỉ có đôi vai cáng thương, tải đạn
Giữa tầm đạn thù, tấm lòng dũng cảm
Em vượt đường dài tiếp thêm lửa tiến công
Tôi thấy rồi em ơi giữa cuộc hành quân
Niềm kiêu hãnh trong mắt em kỳ lạ
Trong chiếc áo bạc màu đôi miếng vá
Cô gái Việt Nam đẹp đến lạ thường
Ôi! Những bông hoa nở giữa chiến trường…
Đề tài TNXP hấp dẫn, phong
phú và tâm huyết đến mức nhân mừng sinh nhật TNXP TP tròn
35 tuổi, NS Quỳnh Hợp ra mắt chùm ca khúc viết về thanh niên xung
phong nằm trong album mang tên “Cỏ hát” với đúng 35 ca khúc (gồm 2
CD và 1 tập nhạc). “Cỏ hát” là nhạc phổ thơ của
các nhà thơ TNXP như Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Cao Vũ Huy Nguyên, Đào Công Điện…
và nhiều nhà thơ thành danh khác viết về
TNXP như: Bùi Chí Vinh, Trần Mạnh Hảo,
Huỳnh Dũng Nhân… Những ca khúc trong “Cỏ hát” được Quỳnh Hợp biểu cảm nhẹ
nhàng, vừa như tự tình vừa như nhắn nhủ, tự nhiên và hồn hậu không đỏm dáng mà
giản dị, chân thành được phổ từ những bài thơ có cái đẹp của tình người, tình
đồng đội cùng những tâm tình xa thẳm nay
được tung xới, điểm tô sắc màu lung linh: du dương, rộn ràng, thánh thót ngân
nga… mang đến cho người nghe những rung cảm bồi hồi, xốn xang…
CKCT cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 đã hoàn
thành nhiệm vụ cuả mình là động viên lòng yêu nước của toàn dân, của tuổi trẻ
vào công cuộc xây dựng đất nước thời hậu chiến, vào hai cuộc chiến đầu bảo vệ
biên giới Tổ quốc và là bước đệm trong
quá trình tiếp thu, hình thành, phát triển nền ca nhạc nhẹ chuyên nghiệp đương
thời sau đó.
(Kỳ tới: Ca nhạc nhẹ chính thống đương thời 1986 - nay)
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích
trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM” - nghiên
cứu & nhận định của Lê Thiên Minh Khoa - sắp xuất bản,
2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét