“Nhạc
đỏ” cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc được phát trên
đài phát thanh, các phương tiện thông tin đại chúng, được trình diễn trong các
buổi sinh hoạt, hội diễn văn nghệ từ năm 1954 đến năm 1975 ở Miền Bắc và vùng
giải phóng Miền Nam.
Trong
giai đoạn 1954-1975, với quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị, âm nhạc ở Miền
Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam sáng tác theo phương châm: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả
để chiến thắng, với các đề tài
phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược lúc đó: chống Mỹ cứu nước ở hai miền và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong đó đề tài thứ nhất, âm nhạc có nhiều ca
khúc thành công hơn.
Vào thời đoạn đầu, trong 1955-1956,
tiếp tục niềm tự hào, lạc quan trong ca khúc 1954, là tiếng ca vui tự do khi miền Bắc được giải
phóng được ngân lên với cung bậc mới: Lời ca thống nhất (1955) của Trần
Quý;
Liên khu Năm yêu dấu (1955), Tình trong lá
thiếp (1955) của Phan Huỳnh Điểu; Bài ca cách mạng tiến công (1956) của
Đỗ Nhuận; Tiếng hát biên thùy (1956) của Tô Hải; Ca mừng đời ta tươi đẹp (1955)
của La Thăng; Ca mừng chế độ ta tươi đẹp (1955) của của Xuân
Oánh; Hát mừng quê ta (1956) của Lê Lôi; Mẹ yêu con (1956)
của Nguyễn Văn Tý và Ánh sáng trên cầu Việt Trì (1956)
của Hoàng Hà, v.v...
Sau đó, khi
Tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc theo Hiệp định Genève không được thực hiện,
đất nước bị chia cắt dài lâu, trong thời đoạn từ cuối năm 1956 đến đầu năm 1958
nội dung ca khúc là tình cảm nhớ thương quê hương Miền Nam, niềm tin, khát
vọng cháy bỏng thống nhất đất nước, như
các ca khúc: của người con miền Nam
ra Bắc tập kết như các ca khúc: Tình ca (1957), Tình ca 2 (1958), Quê mẹ (1958) của Hoàng Việt; Quê tôi (1957 - Lưu Cầu); Quê
tôi miền Nam (1957 - Phan Huỳnh Điểu); Câu hò bên bờ Hiền Lương (1957 - Hoàng Hiệp - Đằng
Giao); Bài ca hy vọng (1958 - Văn Ký),
v.v...
Chuyển qua thời đoạn 1958-1960, Miền Bắc vừa đã hoàn thành kế hoạch ba
năm (1954-1957) khôi phục kinh tế thắng lợi và bước vào thời kỳ mới: cải tạo
XHCN, bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Những thành tựu đạt được
trong kế hoạch 3 năm sau này (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn về văn
hóa, kinh tế, xã hội của miền Bắc trong sáu năm (1954-1960) đã tác động sâu sắc đến văn nghệ sĩ nói chung, nhạc sĩ nói riêng. Hòa
nhập với cuộc sống của nhân dân, họ đã viết nên nhiều ca khúc giá trị phản ánh
được cuộc sống mới và biểu hiện được tâm tư, tình cảm, khát vọng của nhân dân.
Không khí hồ hởi, niềm tin yêu, tinh thần lạc quan trong cuộc sống dựng xây
được các nhạc sĩ đưa vào các ca khúc sáng tác trong ba năm này. Năm 1958 là Mời anh đến thăm quê tôi, Biết ơn Võ
Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn; Tiến
bước dưới quốc kỳ của Doãn Nho; Tiếng
hát trên tiền tiêu Tổ quốc của
Thái Quý; Nhớ đàn xe nước của Vân Đông; Lời
ca gởi Nọong của Nguyễn Tài Tuệ
và Lướt sóng ra khơi của Thế Dương trở thành bài hát chính thức
của quân chủng Hải quân Việt Nam, v.v…
Sang năm 1959, không gian nghệ thuật trong ca khúc mở rộng hơn: Từ trên đỉnh núi của Nguyên
Nhung; Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó
của Nguyễn Tài Tuệ; Kể chuyện người
cộng sản của Trần Hoàn; Trước
ngày hội bắn của Trịnh Quý; Lướt
sóng ra khơi của Thế Dương; Dấu
chân trong rừng của Vĩnh An; Đêm
thao thức của Kpa Pùi; Sao em
chưa về của Lê Lan… Đến năm 1960 là: Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Việt Nam ta đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê hương tôi của Đỗ
Nhuận; Cánh diều miền Bắc của
Văn An, v.v…
Trong thời đoạn này (1958-1960), các nhạc sĩ
đã đi thực tế sáng tác, sống, làm việc cùng nhân dân và viết lên những ca khúc
về ngành nghề của họ: Con trâu sắt
(1958) của Trần Chương; Hò kiến thiết
(1958) của Thái Cơ; Tiếng còi thi đua
(1959); Quà tháng năm
(1960- lời Thế Bảo) của Hồng Đăng, v.v…
Sau phong trào Đồng khởi
(1959), nhất là từ năm 1960, khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam chính thức thành
lập, Miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với sự chi viện của Miền Bắc,
nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, giải phóng Miền Nam
là đề tài chính của âm
nhạc thời đoạn này. Nhiều ca khúc “đi cùng năm tháng" ra đời,
biểu hiện tâm tình, khát vọng của nhân dân và phản ánh những sự kiện anh hùng của
thời đại. Với phương châm văn nghệ phục vụ chính trị, mà quan trọng hơn tấm
lòng vì nhân dân, dân tộc, tự nguyện nhận trọng trách về mình, với một đội ngũ
hùng hậu, nhiều thế hệ, nhiều vùng miền, các nhạc sĩ Việt Nam đã bám sát nhiệm
vụ chính trị của từng thời điểm để sáng tác những ca khúc giá trị và kịp thời
cho cách mạng giải phóng dân tộc. Có thể thấy những cao trào của kháng chiến
chống Mỹ cũng là những thời điểm ca khúc cách mạng Việt Nam nở rộ, vút cao:
1960, 1965, 1972, 1973 và 1975.
Năm
1960, khi Miền Nam bắt đầu vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài hát Giải phóng miền Nam (1960 - Huỳnh Minh Siêng) ra đời
và trở thành ca khúc chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Quốc ca Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, mở đầu cho hàng loạt sáng tác về đề tài chống Mỹ cứu nước
trong những năm đầu chống Mỹ.
Sau đó,
cũng trong năm 1960 nhiều ca khúc được viết kịp thời: Bạn ơi! Hãy nghe Bến Hải tâm tình
của Vĩnh Cát; Cánh diều miền Bắc của Vân An; Việt
Nam đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận…
Sang năm 1961 là: Bài ca may áo của Xuân Hồng; Hà Hội - Huế - Sài Gòn của Hoàng Vân; Trăng sáng đôi miền của An Chung; Nhớ (thơ Thanh Hải) của Lê Yên; Tổ quốc tôi trên 10 năm đã lớn của Hồng Đăng, v.v…
Năm 1962, ca khúc nở rộ hơn với Những
ánh sao đêm của Phan Huỳnh Điểu; Giờ hành động của Lưu Hữu Phước; Nắng
ấm về trên Tổ quốc của Trần Khánh; Tiếng hát Mơ Nông Tipri của Nhật
Lai; Tình
em của Huy Du - Ngọc Sơn; Quê Hương ơi! Ta sẽ về của Trần Kiết
Tường; Nhớ về quê mẹ của Vân Đông; Trên đường ta đi tới của
Bửu Huyền; Khúc ca Hơ Rê của Văn Ngọc…
Sang năm 1963-1964, khi phong
trào cách mạng lên cao thì ca khúc cách mạng ở cả hai miền cũng bay bổng theo.
Năm 1963 là: Hành khúc giải phóng của
Lưu Hữu Phước; Xuân chiến khu của
Xuân Hồng; Lời ca không tắt của
Tô Hải; Qua sông của Phạm Minh Tuấn; Gởi anh đi đầu quân của Nguyễn
Đình Phúc; Nhớ (thơ Nguyễn Đình
Thi) của Hoàng Vân; Quê hương anh là
biển cả của Tường Vi; Chiếc
đàn môi của Nguyên Nhung; Bài
ca chiến thắng của Trần Kiết Tường;
Ta là chiến sĩ giải phóng quân của Văn Lưu - Triều Dâng; Chim hót trên
đồng đay; Dòng nước quê hương của Nguyễn Văn Tý, Bế Văn Đàn sống mãi (thơ Trinh Đường) của Huy Du, v.v…
Cao
điểm của ca khúc thời đoạn năm năm này là năm 1964 với nhiều ca khúc tỏa ra cả
ba chủ đề: xây dựng đất nước, chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc và kháng chiến chống
Mỹ ở miền Nam. Về chủ đề xây dựng đất
nước, có các ca khúc: Từng bước đi vững chắc của Văn Chung; Tôi là người
thợ lò của Hoàng Vân; Những
người con gái đồng chiêm, Bám biển quê hương của Phạm Tuyên; Tiếng hò trên đất Nghệ An của
Tân Huyền, v.v…
Về
chủ đề chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền trong năm 1964 có: Tiễn
anh lên đường của Nguyễn
Văn Tý; Chiếc
khăn tay, Hành quân đêm (lời Trí
Thanh) của Xuân Hồng; Sẵn sàng chiến
đấu, Thanh niên ba sẵn sàng của Lưu Hữu Phước; Anh
vẫn hành quân (thơ Trần Hữu Thung), Tôi ca mãi
đời anh của Huy Du; Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng của Lưu Cầu; Nhớ anh giải phóng quân của
Nguyễn Đình Phúc; Vui mùa chiến thắng
của Văn Chừng - Lam Lương; Tiếp lương
ra tiền tuyến của Phương Giao, v.v…
Cũng trong năm 1964, vào ngày 5 tháng 8, sau sự kiện
vịnh Bắc bộ, Mỹ mở Chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Opeation Pierce Arrow) không kích phá hoại miền Bắc do Hải quân Mỹ thực hiện. Hòa cùng tiếng nổ của hỏa tiễn, pháo phòng
không, súng máy, trường bắn máy bay của bộ đội, dân Mỹ quân là tiếng hát kịp thời động viên, ca ngợi chiến công của họ: Đánh đích đáng của Ngô Sĩ Hiền; Phi đội ta xuất kích của Tường Vi; Giữa biển trời Xô viết - Nghệ An của Hồ Bắc; Hành khúc không quân Việt Nam
của Văn Cao; Không cho chúng nó thoát
của Hoàng Vân; Bay trên bầu trời Tổ
quốc của Xuân Giao…
Từ năm 1965, Mỹ
mở rộng chiến tranh xâm lược, chuyển
sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”,
đưa quân Mỹ và đồng minh vào tham chiến ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến
tranh phá hoại miền Bắc bằng các chương trình quy mô và dài
ngày hơn có các mật danh là Chiến dịch
Flaming Dart (Hỏa Tiêu - 07 đến 11.02.1965) và Rolling Thunder (Sấm Rền - 02.3.1965 đến 31.10.1968) huy
động một lực lượng hải và không quân hùng hậu ném bom với ý đồ hủy hoại hoàn
toàn miền Bắc. Cùng với tiếng bom rền và đạn pháo phòng không nổ tung trên bầu
trời miền Bắc, âm nhạc cũng ngân lên điệu kèn xung trận vừa hùng tráng, vừa
thiết tha.
Năm thứ hai miền Bắc trực
tiếp đánh Mỹ (1965), nhiều ca khúc ra đời trong ý chí “tiếng hát át tiếng bom”
kiên cường: Quảng Bình chiến thắng của Phạm Tuyên; Em bé Bảo Ninh (thơ
Nguyễn Văn Dinh) của Trần Hữu Pháp; Bài ca sông Nhật Lệ của Nhật Lai; Trên
biển quê hương của Đức Minh; Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang
Hợp; Thanh
Hóa anh hùng của Hoàng Đạm; Hà Tây quê lụa của Nhật Lai; Mỗi
bước đi thêm yêu Tổ quốc của Tân Huyền; Hai chị em, Bài
ca giao thông vận tải, Nổi trống lên
đi núi rừng ơi của Hoàng Vân; Tên lửa về bên sông Đà của Hoàng Tạo; Bài ca đảo Bạch
Long Vĩ của Vũ Ngọc Quang; Chào
sông Mã anh hùng của Xuân Giao, Nhịp cầu sông Mã của Lê Xuân
Thọ, Chưa hết giặc ta chưa về, Thề
quyết bảo vệ Tổ quốc, Bạch Long Vĩ đảo quê hương của Huy Du, v.v…
Còn ở Miền Nam trong năm này (1965)
cũng được mùa ca khúc với
nhiều bản nhạc “nổi tiếng
một thời”: Cô gái vót
chông của Hoàng
Hiệp; Ra tiền tuyến của
Phan Huỳnh Điểu; Tôi người lái xe của An Chung; Giết giặc Mỹ cứu nước của
Hoàng Việt; Bài hát giải phóng quân của Lưu Hữu Phước; Mỗi bước ta đi, Hát mừng quê ta
giải phóng của Thuận Yến…
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát
hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của
Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường
ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu
biết mấy những con đường của Phạm
Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của
Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những
cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển
gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm
Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…
Sang năm 1967, có thêm nhiều
ca khúc nổi tiếng của các nhạc sĩ nổi tiếng: Chiếc gậy Trường Sơn của
Phạm Tuyên; Tiếng đàn Ta Lư, Ơi dòng suối La La! của Huy Thục; Tiếng chày trên sóc Bom Bo của Xuân Hồng; Bài ca năm tấn
của Nguyễn Văn Tý; Tải đạn ra
chiến trường của Thanh Anh;
Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng của Trọng Loan; Rừng xanh vang tiếng Ta Lư của Phương Nam; Tiếng nói Hà Nội (thơ Cảnh Trà)
của Văn An; Cả nước hướng về Hà Nội của
Trọng Bằng, v.v...
Bước ngoặt mới của cuộc kháng
chiến chống Mỹ là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chiến dịch đã mang lại cho
quân và dân Việt Nam một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin
vững chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt
nhất. Sự kiện này được các nhạc sĩ ghi
lại bằng những ca khúc rất thời sự kịp thời mà rất có gía trị về nghệ thuật -
tư tưởng, trở thành những bài ca truyền
thống cách mạng sau này: Bão nổi lên rồi của Trọng Bằng; Chào anh
giải phóng quân, chào mùa xuân giải phóng, Tiếng còng giải phóng, tiếng còng
chiến thắng của Hoàng Vân; Sài Gòn quật khởi của Hồ Bắc; Cô
gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Nổi lửa lên em (thơ Giang
Lam) của Huy Du; Đất quê ta mênh mông (thơ Bùi Minh Quốc) của Hoàng Hiệp; Tây
Nguyên mừng đón thơ Bác của Doãn Nho; Bài ca đường 9 của Huy
Du;
Bài ca thành Huế của Đào Việt Hưng; Bài ca người
nữ tự vệ Sài Gòn của Phạm Minh Tuấn; Người Đà Nẵng của Phan Ngọc; Đưa
anh
đi hái măng rừng của Hoàng Tạo; Anh ở đầu sông em cuối sông của Phan Huỳnh Điểu và Chia tay hoàng hôn (thơ Hoài Vũ), một tình ca bất hủ của
Thuận Yến,…
Những năm kế tiếp, chiến
trường trở nên ác liệt hơn, ca khúc càng hùng tráng hơn và đi sâu vào lòng người hơn. Chỉ kể ra vài bản hùng ca
trong từng năm này đã trở thành bất tử trong lòng người dân Việt Nam. Năm 1969
là:
Tiến lên chiến sĩ đồng bào (thơ Hồ Chí Minh) của Huy Thục; Vui
mở đường của Đỗ Nhuận; Theo lời Bác gọi (lời Lê Kỳ Vân) của
Nguyễn Xuân Khoát…
Năm 1970 là Dáng
đứng Việt Nam (thơ Lê Anh Xuân); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát của Huy Du; Tiếng hát những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Bài ca phụ nữ Việt Nam, Huyền diệu của Nguyễn Văn Tý; Như hoa
hướng dương (thơ Hải Như) của Tô Vũ; Thành phố hoa phượng đỏ (lời Hải
Như) của Lương Vĩnh; Bến cảng quê hương tôi của Hồ Bắc; Bác
cùng chúng cháu hành quân của Huy Thục; Cái dốc nó cao của Nguyễn Trọng Tạo,…
Rồi đến năm 1971
là: Tiến
lên thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh của Văn Ký; Cùng hành quân giữa mùa xuân của Cẩm La (Hoàng
Hà); Đi
tới những chân trời của Xuân Giao; Bài ca đường 9 (thơ Xuân Sách) của
Huy Du; Người con gái sông La (thơ Phương Thúy), Năm anh em trên một chiếc xe
tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Màu áo chú bộ đội,
Em đi làm tín dụng của
Nguyễn Văn Tý, v.v…
Đỉnh cao của cuộc chiến
là Chiến dịch Xuân - Hè 1972 (Việt Nam Cộng hòa gọi là Mùa hè đỏ lửa, Mỹ gọi là Easter
Offensive) và sau đó là Chiến dịch Linebacker I (từ tháng 5 - 10.1972) và Chiến dịch Linebacker II (từ 18 - 30.12.1972) của
Mỹ cho không quân và hải quân, phong tỏa, bắn phá, oanh tạc không giới hạn toàn
miền Bắc với ý đồ hủy diệt hòng làm tê
liệt ý chí chiến đấu và khả năng chi viện cho Miền Nam, mà thắng lợi hoàn
toàn thuộc về Việt Nam: Chiến thắng “Hà
Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trong năm này, 1972, nhiều khúc ca vui vang lên ở cả hai miền
Nam, Bắc hát mừng chiến thắng: Ca hát mừng chiến công của Nguyễn
Văn Tý; Hà Nội niềm tin yêu và hy vọng của Phan Nhân; Hà
Nội Điện Biên Phủ, Hà Nội những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Cả
nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng; Từ mặt đất thân yêu của
Tô Hải; Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu; Ta tự hào lên đi, ôi Việt Nam
(thơ Hoàng Trung Thông) của Chu Minh; Biết mấy tự hào Tô quốc ta của Phạm
Đình Sáu; Tây Nguyên chiến thắng của Doãn Nho; Xóm làng theo bước chân anh của
Trần Kiết Tường; Những bước chân chiến thắng của Tân Huyền; Rừng núi Tây Nguyên chiến công
hoa nở của Chu Minh; Xe qua cầu Tùng Cốc của Nguyễn Trọng Tạo,
v.v…
Thắng lợi của Chiến dịch Xuân
- Hè 1972 và
Trận Điện Biên Phủ trên không 1972 đã đưa đến Hiệp định Paris 27.01.1973
với Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được quốc tế chính thức công nhận và
kiểm soát hầu hết vùng nông thôn Miền Nam. Niềm vui quá lớn nên tràn đầy và kéo
dài suốt hai năm trong âm nhạc. Năm 1973 là: Cả Hà Nội hành quân của
Lê Lôi; Gẩy đàn lên hởi người bạn Mỹ, Thấy chăng anh cảng của chúng tôi
của Phạm Tuyên; Ta ra trận hôm nay của Văn An; Lời ru trên nương (thơ
Nguyễn Khoa Điềm) của Trần Hoàn; Em ở nơi đâu của Phan Nhân; Tiếng
đàn bầu (lời Lữ Giang) của Nguyễn Đình Phúc; Tôi lắng nghe sông Đà gọi Thác Bà
của Nguyễn Đình Tấn; Tấm
áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa của
Nguyễn Văn Tý; Giải phóng quân, Nhớ của Phan Huỳnh Điểu, Tiếng
hát trên quê hương giải phóng của Phạm Đình Sáu...
Năm sau,
1974, niềm vui lớn lắng đọng lại trong hành khúc và lắng sâu trong cả tình ca: Chiến
sĩ vô danh (lời Dân Thanh) của Trần Kiết Tường; Tiếng người vang mãi trên đường
hành quân của Phan Khắc Vinh; Quảng Ngãi đất mẹ anh hùng của
Trương Quang Lục; Chú lính đường dây của Phạm Huy Thưởng; Tình em biển cả của
Nguyễn Đức Toàn; Đêm nay anh ở đâu của Phan Huỳnh Điểu; Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ, tổ khúc ba bài của Nguyễn Trọng Tạo, v.v…
Điểm đỉnh
của ca khúc giai đoạn này là năm 1975. Trước, trong và sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, với một dàn hợp
ca hát mừng đất nước thống nhất: Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng của
Phạm Tuyên; Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà; Trên đường hạnh phúc (thơ
Tạ Hữu Yên) của Vân An; Tiếng hát từ
thành phố mang tên Người (thơ Đăng Trung) của Cao Bách Việt; Bài
ca thống nhất của Võ Văn Dị; Ngày thống nhất Bác đi thăm của
Phạm Tuyên; Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh của Xuân Hồng; Tổ
quốc chưa đẹp thế bao giờ (thơ Tố Hữu) của Nguyễn Văn Thương;
Chiều nay biển hát của Hồng
Đăng, liên khúc hoành tráng Đường tàu thống nhất của Nguyễn Trọng Tạo và
hai ca khúc hợp của Nguyễn Văn Thương: Dân
ta đánh giặc anh hùng, Tiến lên toàn thắng ắt về ta, v.v…
Nhiều nhạc sĩ miền Nam tập kết ra Bắc rồi ở
lại công tác hoặc trở lại miền Nam, hoặc được phân công ở lại miền Nam rồi vào chiến khu đã có đóng góp lớn
cho ca khúc cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ bởi những ca khúc được công chúng
say mê và nhớ đời. Và thời điểm gay gắt nhất nào của đất nước cũng xuất hiện
những sáng tác giá trị của họ: Phan Huỳnh Điểu, Ca Lê Thuần, Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Nguyễn Văn Tý, Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn
Thương, Trần
Hoàn, Lưu Hữu Phước, Thuận Yến, Phạm Minh Tuấn, Tôn Thất Lập, Trương Quang
Lục, Lưu Cầu… Từ những năm đầu thập niên 60,
nhiều người trong họ vào chiến trường miền Nam sáng tác những bài ca để đời với bút hiệu
mới: Phan Huỳnh Điểu với bút danh Huy
Quang, Trần
Hoàn với Hồ Thuận An, Hoàng Việt với
Lê Quỳnh, Lưu Hữu
Phước ký tên Lưu Nguyễn - Long Hưng hoặc Huỳnh Minh Siêng đã viết nhiều ca khúc nổi
tiếng, đặc biệt bài Giải phóng Miền
Nam (1960) mang đậm dấu ấn lịch sử.
Liên
quan đến đề tài Chống Mỹ cứu nước và Xây dựng đất nước, các nhạc sĩ viết nhiều
ca khúc về đất nước và tâm hồn Việt Nam, trong đó có một số ca khúc bất
hủ như Quảng Bình quê ta ơi (1964)
của Hoàng Vân; Tiếng hát
sông Lam (1965) của Đinh Quang
Hợp; Vàm Cỏ Ðông của
Trương Quang Lục; Tây Nguyên bất khuất của Văn Ký; Bài
ca Hà Nội của Vũ Thanh;
Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh (1974) của Nguyễn Văn
Tý; Những cô gái đồng bằng sông Cửu
Long của Huỳnh Thơ; Cô
gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư
Nhất Vũ; Hà Nội - Niềm tin và hy vọng (1972) của Phan Nhân, v.v…
Cũng do hoàn cảnh chiến tranh, một số nhạc sĩ có dịp tiếp
xúc với đồng bào các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc nổi tiếng về đề
tài này, như Tiếng hát ban mai
(1964 - Thanh Anh); Tiếng cồng Plây
Gi-răng (1965- Hồ Bắc);
Tiếng đàn ta lư (Huy
Thục); Cô gái cầm đàn lên đỉnh
núi (Văn Ký); Bản
Mèo đổi mới (Trịnh Lai); Em là hoa Pơ Lang (1966 - Ðức Minh); Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng
chiến thắng (1968 - Hoàng Vân); Cánh chim báo tin vui (1969 - Đàm
Thanh); Bóng cây Kơ-nia (1971 - nhạc Phan Huỳnh Điểu - thơ Ngọc Anh
phỏng dịch dân ca Hơ-rê); Tháng ba Tây Nguyên
(1974 - Văn Thắng - Thân Như Thơ); Sông
Dakkrong mùa xuân về (1975 - Tô Hải), v.v…
Chiến trường ác liệt, cam go nhất lúc bấy giờ là Trường Sơn, nơi quân
dân “xẻ dọc đi cứu nước” là đề tài cho nhiều ca khúc lãng
mạn cách mạng, tráng lệ “vượt thời gian”. Có thể kể ra không dưới 10 ca khúc
tiêu biểu nhất về đề tài Trường Sơn: Đường
tôi đi dài theo đất nước (1966);
Bước chân dài trên đỉnh Trường Sơn (1966 - lời Tào Mạt) của Vũ Trọng
Hối; Bài ca Trường Sơn (1967 -
lời Gia Dũng); Trên đỉnh Trường Sơn ta
hát (1970) của Huy Du; Gặp
nhau trên đỉnh Trường Sơn (1970) của Hoàng Hà; Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây (1971 – thơ Phạm Tiến Duật) của
Hoàng Hiệp; Đường Trường Sơn xe anh
qua (1972) của Văn Dung; Xe ta đi trong đêm Trường Sơn
(1972); Đêm Trường Sơn nhớ Bác (1975 - lời Nguyễn Trung Thu) của Trần Chung; Lá
đỏ (1975
- thơ Nguyễn Đình
Thi) của Hoàng Hiệp, v.v…
Tinh thần
lạc quan cách mạng thấm tràn vào ca khúc cách mạng. Nhiều bài hát hài hước, sôi
nổi, yêu đời xuất hiện được bộ đội và nhân dân yêu thích. Anh quân bưu của Đàm
Thanh; Con cua đá của Phan Ngạn; Năm anh em trên một chiếc xe tăng
(thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Nổi lửa lên em của Huy Du… nằm trong
loại nhạc này, trở thành những bài hát phổ biến trong sinh hoạt, liên hoan,
tiệc tùng của quân dân.
Một đề tài
nữa của ca khúc Việt Nam trong giai đoạn này là ca ngợi hình ảnh lãnh tụ. Hình
tượng Hồ Chí Minh trong ca khúc giai đoạn này được nâng lên tầm cao hơn thông
qua cảm nhận hoàn mỹ hơn của các nhạc sĩ về Người. Có rất nhiều ca khúc chính
thống: Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm Tuyên; Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người (1962)
của Trần Kiết Tường; Ðôi dép Bác Hồ của Văn An; Nhớ ơn
Hồ Chí Minh của Tô Vũ; Lời ca dâng Bác của Trọng Loan; Trông cây lại nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận; Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Văn Cao (khác hai bài Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Lưu
Hữu Phước và của Đỗ Nhuận viết trong giai đoạn trước); Tình Bác sáng đời ta của Lưu Hữu Phước; Người chiến sĩ ấy (1970)
của Hoàng Vân; Miền Nam nhớ mãi ơn Người (1969 - thơ Trần Nhật Lam) của Lưu Cầu, Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin (1968) của Thuận Yến, v.v…
(Kỳ tới: TÌNH KHÚC VIỆT 1954 - 1975).
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích trong
cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM” -
nghiên
cứu & nhận định của Lê Thiên Minh Khoa - sắp xuất bản, 2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét