Đầu xuân, không biết bà
vợ ông Đô đi xem bói ở đâu rồi về nhà bảo ông Đô theo hầu và nhất định phải
tuân theo đến cùng. Thầy phán là tuổi ông Đô rất tương hợp với người tuổi thìn.
Nếu kinh doanh trên đất lâu năm của người tuổi thìn sẽ cực tốt. Gia đạo hạnh
phúc vô cùng, ông Đô sẽ có quyền lực khôn lường, giàu lên như diều gặp gió,
không làm thì cũng dư ăn, tiền bạc sẽ tự nhiên tìm đường mà đến…Vì là dân kinh
doanh nên ông Đô rất coi trọng việc hên xui, ông tuyệt đối tin vào sự giúp đỡ
vô điều kiện của các đấng tâm linh. Chuyện lễ bái đối với ông giống như là tín
ngưỡng hàng đầu. Ông Đô sùng đến mức bất kể việc gì ông cũng xin phép hỏi “
thầy”, lời thầy phán là thánh chỉ, nhất định phải làm theo.Vì đây là cơ hội
ngàn năm mới có một nên không thể nào bỏ lỡ, phải thực hiện được bằng mọi giá
và áp dụng ngay bây giờ. Ngay lập tức kế hoạch được thực hiện liền sau đó.
Ông Đô là chủ quán nhậu vỉa hè hải sản
Chiến nằm trên đường Nguyễn Tất Thành. Quán nhậu vỉa hè Chiến nằm trên khu đất
trống của nhà nước chưa đưa vào sử dụng nhưng thiếu sự quản lý và kiểm soát
chặt chẽ của chính quyền địa phương đã vô tình dung túng cho nạn lấn chiếm đất
và vỉa hè trái phép. Tệ nạn lấn chiếm vỉa hè và xây dựng quán nhậu trái phép vô
tư tồn tại, nạn xả thải gây ô nhiễm môi trường và đái ỉa bậy bạ gây hôi thối,
mất thuần phong mỹ tục ngày một trầm trọng, nạn ồn ào do ăn uống và ca hát về
khuya ngày một bành trướng hơn. Sau 15h trở đi, quán bắt đầu dọn hàng và che rạp tạm bợ làm
nhà xí. Do tạm bợ nên thực khách ỉa đái bậy bạ tung tung gây ô nhiễm nghiêm
trọng và cực kỳ mất thuần quan mỹ tục, kết hợp với nạn xả thải khi chế biến
thức ăn và thức ăn thừa thải ra của quán
Chiến ra môi trường gây ô nhiễm và nguy cơ sinh bệnh rất cao, ngay trước họng
gió vào cửa thoát hiểm của nhà bà Tư, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
và đời sống của bà Tư.
Đô là một gã côn đồ hơn bốn mươi tuổi, nhìn
ánh mắt rất ranh mãnh, độc ác. Đô bước vào trong sân nhà bà Tư gọi thân mật:
- Cô
Tư ơi!...
Đô có quán nhậu vỉa hè giáp với mảnh đất
nhà bà Tư, mà gã ao ước muốn chiếm đoạt từ lâu. Kế hoạch của gã là chiếm cho
bằng được mảnh đất của nhà bà Tư vì mảnh đất gã đang kinh doanh quán nhậu vỉa
hè là lấn chiếm trái phép, sẽ không tồn tại lâu dài. Có đến mười mấy lần gã hỏi
thăm và thỏ thẻ sẽ mua cho bà Tư một căn nhà nhỏ khác đầy đủ tiện nghi, khoản
còn lại coi như vốn để dưỡng già, nhưng bà Tư kiên quyết từ chối, cho dù hàng
ngày gã Đô đã cố tình tra tấn bà Tư bằng đủ thứ tệ nạn xấu xa từ quán nhậu. Bà
bảo:
- Tôi sinh ra ở đây, chết cũng ở đây.
Bà Tư tuổi thìn, năm nay ngót ngét bảy mươi
tuổi, bà gầy đét, nhăn nheo, lưng còng, nhưng sức khỏe còn dẻo dai hơn cả mấy
cô con gái tiểu thư thời nay, bà sẽ khỏe hơn nữa nếu không ở sát vách quán nhậu
vỉa hè Chiến. Bà Tư không chồng không con, có ba đứa cháu gái, một đứa cháu
trai gọi bà bằng cô ruột. Thằng cháu
thỉnh thoảng vẫn đến thăm bà, chủ yếu là lấy lòng, nịnh bà để khi bà qua đời
thì thừa kế lại mảnh đất đang sống cho nó. Bà Tư nhớ rất rõ tính cách của từng
đứa cháu cả gần lẫn xa, những đứa tốt lẫn những đứa xấu, những đứa làm cho bà
vui nhưng cũng không ít đứa khiến bà đau lòng khi thể hiện thói đạo đức giả đối
với bà già gần đất xa trời: Thạch sanh thì ít mà Lý Thông thì nhiều.
Căn nhà mà bà Tư đang ở là của cha mẹ xây
cho bà. Cha mẹ bà Tư sinh hai đứa con trai thì mới sinh được một mụn con gái đó
là bà Tư. Gia đình bà sống rất hạnh phúc khi bà còn là một đứa con gái nhỏ.
Nhưng khi bà ngày càng lớn thì quả là một điều vô cùng lo lắng, nếu không muốn
nói là mất ăn mất ngủ, không phải vì lẽ bà ngang bướng hoặc quậy phá, mà bởi lẽ
chẳng có thằng con trai, đàn ông nào để ý đến bà, hay nói ngắn gọn thì bà chất
phác quá đi thôi. Bà Tư bị liệt vào hàng ngũ gái xấu nên hơn hai mươi tuổi đời,
bà cũng chưa có bạn trai, nên cha mẹ bà bắt đầu lo. Kiếm ở đâu ra cho bà một
tấm chồng bây giờ?.
Ngay từ khi bà Tư còn nhỏ, mẹ bà đã chép
miệng “ con gái mà xấu thế này thì ế chồng mất thôi”. Lớn lên tuổi dậy thì là
tuổi đẹp nhất của thời con gái vậy mà bà Tư vẫn không có lấy một đứa bạn trai
nào. Thôi thì cha mẹ sinh sao phải chịu thế nhưng càng ngày bà Tư lại càng mặc
cảm và càng không muốn lấy chồng. Bà Tư không hề chịu làm quen với bất cứ một
thằng đàn ông nào mà mọi người mai mối cho. Vậy là bà Tư trở thành gái già không chồng không con. Nên
cha mẹ bà quyết chia phần đất cho đứa con gái duy nhất đồng đều như các anh của
nó.
Hai ông anh bà Tư đã quy tiên, con cháu bán
đất đi định cư chổ khác từ lâu. Anh cả của bà Tư sinh được hai người con gái,
còn anh kề bà Tư sinh được một gái một trai. Nên bà Tư dự định sẽ thừa kế căn
nhà lại cho đứa cháu trai duy nhất nhưng không phải là đứa mà bà tin cậy nhất. Bà tin tưởng ba đứa cháu gái
hơn nhưng dù sao nó vẫn là gái theo chồng thì không thể thờ cúng bà được, bọn
cháu gái chỉ thỉnh thoảng mua đồ đến cúng, rồi nhớ viếng thăm mộ bà là
quý lắm rồi. Còn cúng giỗ bà hàng năm đàng hoàng thì chỉ có thằng cháu trai duy
nhất này thôi.
Gã Đô vô tình phát hiện ra thằng cháu bà Tư
cũng tuổi thìn, với cặp mắt tinh tường đã nhìn chằm chằm được vào góc khuất của
đại gia đình nhà bà Tư. Gã Đô tìm thằng cháu ruột của bà Tư, nhủ thầm:
-
Nói
thật nhé, anh không tin là bà Tư sẽ tốt với chú em như thế, sẽ di chúc lại căn
nhà cho chú nếu biết chú mắc nợ một khoản lớn do làm ăn thua lỗ…
Chờ cho thằng cháu thấm. Gã tiếp:
-
Trời
cho chú em là thằng cháu trai đích tôn duy nhất thì căn nhà của bà Tư là phải của chú em mới
đúng. Có điều chú em phải bắt bà ấy làm cho cái giấy di chúc để rồi sau này được hưởng thừa kế căn nhà. Bà Tư không chồng,
không con cái, nhưng cháu thì có cả đám cho dù là gái thì vẫn được hưởng thừa
kế như thường. Đám cháu gái có đứa nào
hiếu thảo với bà Tư đâu, bọn nó chỉ chằm chằm vào cái nhà thôi. Chú thấy anh
nói thế đúng không?. Bà Tư còn sống thì phải bắt bà ấy viết di chúc lại cho chú
mới an tâm.
Thằng cháu lo ngại, nhưng bị hấp dẫn, đáp:
-
Những điều anh vừa nói quả là bất ngờ với tôi quá. Tôi
không thể bắt cô Tư viết di chúc cho tôi ngay được. Nói thật là tôi đã từng nghĩ đến chuyện như thế này,
nhưng không biết phải làm sao, tôi cần phải có thời gian
suy nghĩ xem thế nào đã.
-
Anh sẽ
giúp chú em nhưng với một điều kiện, khi
xong thủ tục thừa kế thì chú em phải bán căn nhà đó cho tôi…
Ông Đô chủ quán nhậu vỉa hè hí hửng ra về,
khoái trá vì chuyến này sẽ thành công ngoài mong đợi khi thấy thái độ của thằng
cháu khác xa so với thái độ của bà Tư. Ông Đô đoán quả không sai. Thằng cháu
đâm nghĩ ngợi cả ngày, đến đêm hôm đó không tài nào ngủ được, thức trắng cả đêm.
Mấy ngày trời thằng cháu như bị lên cơn động kinh vì băn khoăn lo lắng. Thằng
cháu cảm thấy rõ ràng kế hoạch ấy có cái gì không tốt cho cô Tư, nhưng nghĩ đến
căn nhà thừa kế, đến những đồng tiền tươi tự nhiên rơi vào túi của mình, từ
trên trời rơi xuống cho mình như thế, chẳng phải làm gì mà có, không thể bỏ qua
cơ hội này được. Thằng cháu nghĩ, quan trọng là mình là thằng cháu đích tôn.
Sau khi cô Tư chết đi thì nhà và đất này người
thừa kế chính đáng là mình.
Ông Đô đến xem thằng cháu bà Tư trả lời ra
sao, hắn im lặng để cho gã chờ đợi thật lâu, ý như muốn nói không chịu, song
rất sợ gã không đồng ý. Cuối cùng, thấy gã sốt ruột quá, thằng cháu bèn nói ra
ý định của mình. Gã giật nảy mình cái đụi và lập tức lắc đầu. Thấy không ổn,
thằng cháu bèn thuyết phục:
-
Vì tôi
cần tiền trả nợ gấp bây giờ nên mới đồng ý. Anh phải giúp tôi lừa cô Tư ký vào
tờ thừa kế. Tôi sẽ viết giấy tay bán nhà cho anh, tiền đặt cọc là 500.000.000
đồng. Số tiền đó mới vừa đủ cho tôi trả nợ, sau khi cô Tư chết tôi sẽ làm đầy
đủ thủ tục pháp lý cho anh và nhận đủ số tiền còn lại…
Nhưng ông Đô không mắc mưu.
-
Chú em
giành nắm cán, để anh phần lưỡi, chơi vậy là không đẹp. Dù sao nếu chú được
thừa kế thì công sức của anh đây cũng đâu có nhỏ…
Phải mất một thời gian để bàn cãi, tính
toán, cuối cùng cả hai bên đều thống nhất một cái giá có lợi cho cả đôi bên.
Thời của bà Tư, phụ nữ uống rượu là chuyện
bình thường, vậy nên bà mắc chứng nghiện rượu. Ông Đô và thằng cháu âm mưu
chuốt cho bà say, cùng với một luật sư bẩn đến làm giấy tờ thừa kế.
Từ ngày ký hợp đồng có
qua có lại với người tuổi thìn là cháu bà Tư thành công một cách thuận lợi
ngoài dự kiến. Ông Đô xem như là có lá bùa may mắn ngay bên cạnh mình nên mạnh
tay mở rộng quán nhậu vỉa hè trên khu đất cấm. Quán buôn bán ồn ào sau 16h chiều đến tận quá khuya gây ô
nhiễm tiếng ồn, mất an ninh trật tự làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ và
sức khỏe của người dân xung quanh đó, nạn ăn uống xong tiểu đái bậy ra xung
quanh gây mất thuần quan mỹ tục, gây ô nhiễm môi trường, nạn xả thải của quán nhậu ra môi trường xung quanh gây hôi
thối và ô nhiễm trầm trọng, nguy cơ phát sinh bệnh cao do ruồi muỗi và giòi bọ,
nạn karaoke kẹo kéo cả đêm tại quán nhậu.Việc xây dựng và kinh doanh quán nhậu
lấn chiếm vỉa hè đất công tồn tại đã lâu, không đăng ký thuế và nộp
thuế, không chịu sự kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm tiềm ẩn nhiều nguy cơ
ngộ độc thực phẩm cao, không có biện pháp phòng cháy chữa cháy và môi trường,
xả thải, gây ồn ào về khuya ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần
của nhân dân. Tình trạng này đã tồn tại nhiều năm và mỗi ngày một bành trướng
hơn, gây bất bình trong nhân dân và gây dư luận không tốt là phải chăng đã có
sự chung chi, dung túng cho các hoạt động này?. Và cái gì đến cũng phải đến,
nhân dân không chịu nổi phải làm đơn kêu cứu khắp mọi nơi.
Lời thầy phán sao chẳng
thấy linh nghiệm, chỉ thấy rằng tình hình kinh doanh ngày càng xuống dốc, cuối
cùng thì quán nhậu tạm thời đóng cửa. May mắn đến với ông Đô đâu chẳng thấy. Chỉ
thấy bây giờ ông Đô mất khoảng thu nhập
từ quán nhậu vỉa hè. Ông Đô thất vọng tràn trề, đập đầu vào tường rầm rầm rồi
chửi trời, chửi đất, chửi cả số phận mình và đặc biệt là chửi lão thầy bói
dỏm…
Mấy năm đã trôi qua. Bà Tư khỏe mạnh như có
trời phù hộ. Dường như bà không già đi một chút nào, và ông Đô cảm thấy quá
tuyệt vọng. Cái khoản tiền 500.000.000 đồng đã ứng trước đối với gã bây giờ
không khác gì một gánh nặng quá sức nhưng nếu buông bỏ thì thật tội nghiệp.
Thằng cháu bà Tư cũng thừa biết điều đó nhưng lỗi không thuộc về nó. Gã làm như mình bị cày bẫy, gã sốt ruột về kế
hoạch xây dựng lại quán nhậu. Thỉnh thoảng gã lại lấy cớ đi ngang nhà bà Tư,
tưởng tượng bà ấy nhìn mình với cái nhìn khoái chí. Cứ như thể Bà đã cố tình chơi
cho gã tham lam một vố quá đau, và gã ra về, mồm lẩm bẩm:
- Bà phải chết thì thằng này mới làm ăn lại
được.
Ông Đô không biết làm thế nào, vì từ ngày
quán nhậu lấn chiếm vỉa hè đóng cửa, đối với gã quả thật là quá khó khăn. Gã đã
năn nỉ thằng cháu bà Tư xem có thể lấy lại 500.000.000 đồng hay không nhưng
thằng cháu bà Tư không đồng ý:
-
Cứ
theo hợp đồng mà thực hiện, còn nếu cảm thấy quá sức trả số tiền còn lại thì hủy hợp đồng, mất tiền cọc...
Nghe thằng cháu bà Tư nói thế, gã những
muốn bóp cổ hắn chết ngay: Thằng gì mà độc ác quá, chả thương lấy cái người đã
giúp nó có được tờ thừa kế. Gã ghét thằng cháu bà Tư với niềm căm ghét của người bị cảnh khốn khó đọa
đày. Đô bèn tìm kế trừng phạt thằng cháu. Còn thằng cháu bà Tư thì lẩm bẩm:
Tham thì thâm thôi, đời là vậy mà.
Trong phòng ngủ của bà Tư, trên bàn chất đầy những lọ thuốc con nhộng trợ giúp
thêm vào việc chữa bệnh dạ dày của người già. Một buổi sáng, có người bà con đi
du lịch Trung quốc về, bà Tư gởi mua dùm một lọ thuốc viên thần dược giúp tăng
cường sức khỏe. Đây là loại thuốc thần dược rất công hiệu được sản xuất ở Trung
Quốc, rất khó tìm ở trong nước. Bà Tư rất mừng. Nhưng ngày hôm sau, trên trang
nhất các tờ báo đều xuất hiện bản tin khuyến cáo của Bộ Y tế: Không nên dùng thuốc
thần dược làm từ thịt người. Những viên thuốc nhỏ đó có thể gây chết người khi
uống với liều lượng lâu ngày. Đặc biệt gây nguy hiểm cho những người bị bệnh về
dạ dày. Đã có nhiều trường hợp tử vong vì loại thuốc thần dược này. Bà Tư nghe
người họ hàng thông báo thế thì hoảng hốt quăng lọ thuốc vào thùng rác khi
thằng cháu đang ở đó, hắn tò mò cầm lọ
thuốc quan sát rất kỹ. Những viên thuốc con nhộng, có một đầu màu trắng và một
đầu màu xanh giống hệt những viên thuốc bà Tư
thường dùng lâu nay để chữa bệnh dạ dày mà thỉnh thoảng bà vẫn thường
nhờ hắn mua giúp. Trong một phút một ý nghĩ lóe sáng lên trong đầu, không kiểm
soát được hành động của mình, hắn đi mua ngay một hộp thuốc dạ dày về so sánh,
rồi đánh tráo những viên thuốc cấm dùng thay cho những viên thuốc được dùng,
lòng không chút ấy nấy cũng như mặc cảm tội lỗi nào. Thằng cháu tự an ủi: “Báo
chí chỉ nói quá lên thôi, đâu phải người nào dùng cũng chết. Với lại tại mình khó khăn quá nên mới lẩm cẩm vậy thôi…. Vào một dịp thuận lợi, thằng cháu đánh tráo lọ
thuốc ngay tại cái bàn trong phòng ngủ mà bà Tư không hề hay biết gì.
Thằng cháu không thể tin là chuyện đó xảy
ra dễ dàng như vậy. Một thời gian sau
đó, hắn đến nhà cô Tư vào buổi trưa và thấy bà nằm sóng soãi trên giường ngủ,
trên tay còn cầm lọ thuốc đã được sử
dụng một nửa. Sau khi lay gọi thấy cô Tư không tỉnh, biết là bà đã hôn mê sâu, hắn
suy nghĩ nên gọi xe cấp cứu. Tuy nhiên, hắn đã dọn dẹp sạch sẽ, không để lại
dấu vết cũng như bằng chứng gì, hắn phi tang hết cả lọ thuốc trước khi xe cấp
cứu đến mang cô Tư đi.
Chẳng bao lâu sau có tiếng đồn là bà Tư bị tai biến, nay chỉ còn
sống thực vật chắc không trụ được bao lâu nữa , người đã sõng sượt như xác
chết. Ông Đô không đi ngang qua nhà bà Tư nữa, Gã nhủ thầm: Trời đã giúp ta. Gã
đang mơ về cái ngày bà Tư qua đời, căn nhà đó sẽ về tay gã, rồi gã sẽ mang giấy
tờ nhà đi vay ngân hàng để lấy tiền xây quán nhậu. Và không bao lâu sau gã sẽ
trở nên giàu có như ngày xưa. Mỗi khi nghe người ta thương cảm về bà Tư, thì gã
khẽ bảo với bộ mặt buồn rầu:
- Vào tuổi bà Tư mà tai biến thì cũng gay đấy nhỉ? Già rồi thì
vô phương cứu chữa. Như vậy thì chẳng tốt đẹp gì cho bà ấy đâu.
Quả là chẳng tốt đẹp cho bà Tư thật. Nhưng
người tính không bằng trời tính. Thằng cháu đích tôn tuổi còn trẻ vậy mà bị đột
quỵ ra đi bất ngờ trước bà Tư một tuần vào mùa xuân nhưng rét mướt năm đó…
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét