|
Outhine Bounyavong |
Outhine
Bounyavong là một trong những nhà văn đương đại nổi bật nhất ở Lào. Ông sinh
năm 1942 ở Sayabouri, một tỉnh ở miền
tây bắc Lào. Mặc dù được học dưới mái trường thời thuộc địa, được giảng dạy bằng
tiếng Pháp, và môn văn học chỉ tập trung vào các tác phẩm của người Pháp nhưng
Outhine là một trong những nhà văn viết bằng tiếng Lào đầu tiên đương đầu với
những ảnh hưởng tàn khốc của chế độ thực dân và những khó khăn trong việc duy
trì những giá trị truyền thống của Lào.
Những truyện ngắn
của ông trong tập Mother’s Beloved (Con Yêu Dấu Của Mẹ) mô tả bức tranh sinh động
của đời sống xã hội đang thay đổi của người Lào, qua đó ông nêu cao những giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của nhân dân Lào. Truyện của ông ca ngợi đức
tính đơn giản, lòng nhân ái, sự tôn trọng tuổi tác và những tập quán làng bản của
người Lào. Ông phê phán công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã đánh mất những giá
trị ấy. Ông cảnh báo việc phát triển kinh tế dẫn đến suy thoái môi trường. Ông
lên án nạn tham nhủng đã tạo nên một nhóm nhỏ thượng lưu giàu có đối chọi lại với
đa số dân nghèo. Ông cũng chê bai thói ích kỷ và tôn thờ vật chất. Sự tàn khốc
của chiến tranh cũng là một trong những chủ đề của ông.
Nguyễn Khắc Phước
CON YÊU CỦA MẸ
OUTHINE
BOUNYAVONG (Lào)
Nguyễn Khắc Phước
dịch.
Chúng tôi đi bộ
theo đường mòn rộng vừa đủ một chiếc xe bò. Sau hai giờ băng rừng, chúng tôi đến
một đồng cỏ khoảng khoát. Về phía phải bên kia con đường là những ruộng bông vải,
mè, dưa leo, và những thứ cây đáng giá khác. Xa hơn nữa là những cây dừa phủ bóng lên những
cây nhỏ hơn. Thấp thoáng trong rặng cây có hai hoặc ba mái nhà, và còn có vài
mái nhà khác núp sau tán lá dày. Cuối cùng, chúng tôi đang tiến gần nơi muốn đến.
Có hai nhà báo
cùng đi với chúng tôi. Họ đến lấy thông tin về tỷ lệ người biết chữ ở làng,
trong khi mục đích của tôi là ghi âm những chuyện dân gian truyền khẩu có thể
dùng làm tài liệu giảng dạy.
Khi tôi đi trên
đường mòn, nhiều tình cảm và kỷ niệm chợt bùng lên. Tôi nhớ mình đã rời đi rồi
trở lại nơi sinh quán ra sao. Cùng với những hồi ức gây xúc động bất chợt đó,
tôi ngửi thấy mùi hăng hắc của cỏ khio
thoảng trong gió. Tôi nghe tiếng kẻo kẹt từ những ngọn tre… Từ rất xa, vọng đến
tai tôi bản nhạc tưng bừng của những cánh ve. Tất cả âm thanh đó gợi lên không
khí quen thuộc nơi sinh quán của tôi. Nhưng thực ra, tất cả chúng tôi đều đang
trở về nơi sinh quán của Bounkham, một bạn đồng hành với chúng tôi.
Vừa khi trông thấy
làng mình, Bounkham xúc động nói, “Hai chục năm rồi từ khi tôi rời chốn này!
Khi tôi thấy con đường mòn, tất cả mệt nhọc hình như tan hết. Chẳng khác gì một
bức tranh đã chạm vào ký ức tôi.” Giọng Bounkham có vẻ sung sướng.
Bounkham kể rằng
anh được sinh ở đây. Đây cũng là nơi mẹ anh đã qua đời khi anh chỉ mới tám tuổi.
Bố anh tục huyền, lấy một người phụ nữ làng khác làm vợ, và cả gia đình bỏ làng
này sang làng nọ trong những năm chiến tranh và xung đột tàn phá đất nước. Mãi
cho đến hôm nay, Bounkham mới có dịp trở về. Người cậu, em của mẹ, vẫn còn ở
trong làng, nhưng đã già lắm rồi. Bounkham đã mua hai lon sữa đặc làm quà để bày
bỏ lòng kính mến cậu. Anh không không thể mang nhiều hơn hai lon bởi con đường
mòn gập ghềnh và thêm một lon nữa thì quá nặng.
“Có ai trong làng còn nhớ anh không?” tôi hỏi.
“Có lẽ không còn
ai nhớ, nhưng tôi sẽ hỏi dân làng xem nhà cậu tôi ở đâu, vì tôi không nhớ chính
xác.”
Chúng tôi tiếp tục
vừa đi vừa ngắm vẻ tươi tốt của những vườn rau và cây ăn quả. Thế rồi, từ một
khu vườn bên trái, một phụ nữ có bầu xuất hiện, mang một rổ nhiều thứ rau.
“Chào Dì, nhà Dì ở đâu?” Bounkham lễ phép hỏi.
“À, gần đây
thôi,” bà rụt rè trả lời, vẻ nghi ngờ những
khuôn mặt lạ.
“Chúng tôi từ thành phố đến đây. Con là dân
làng này nhưng đã đi xa nhiều năm rồi. Hôm nay con trở về thăm,” Bounkham giải
thích, hy vọng làm bà ấy bớt nghi ngờ.
“Ồ, vậy hả? Tôi không nhớ ai cỡ tuổi cậu lớn
lên ở đây. Thế cậu con cháu nhà ai?”
Chúng tôi giới
thiệu tên mình. Bounkham còn nêu tên cha mẹ và cậu của anh. Người phụ nữ có bầu
bảo Bounkham rằng bà biết rõ cậu của anh: ông ở phía nam của làng. Bà ở phía bắc
và tên bà là "Mae Poon." Bounkham có vẻ như chưa bao giờ nghe tên bà.
Nhưng anh cẩn thận đáp, đường như anh biết tên bà: “Ồ, Mae Poon này, làng mình
bây giờ ra sao?”
Bà bầu trả lời rằng
mọi người đều ổn. “Họ có đủ ăn và kiếm tiền đủ sống. Chúng tôi bán nhiều sản phẩm
nhưng kiếm được chẳng bao nhiêu tiền vì đường sá khó khăn.” Sau khi nói, bà đi
xuống đám ruộng phía bên phải . Bà nói phải hái rau để cho heo ăn.
Bounkham lấy một
lon sữa đặc và gọi bà, “Đợi đã, Dì ơi! Dì nhận giúp con cái này. Dì nhận giúp
con cái lon sữa này nhé.”
“Cảm ơn, con,”
bà bầu nói. Sau khi cảm ơn, bà đi về một hướng khác.
Chúng tôi tiếp tục
theo con đường mòn. Tôi khen Bounkham tốt bụng. Anh mua hai lon sữa đặc biệt
dành tặng cậu mình nhưng anh đã cho người lạ một lon.
Trong câu trả lời
của Bounkham, tôi nghe có niềm hãnh diện và hạnh phúc.
“Trong gia đình,
chúng tôi được dạy làm điều này, đặc biệt là tôi. Mẹ dạy rằng nếu khi ta mang
theo thực phẩm mà gặp một phụ nữ có bầu thì ta phải chia một phần cho người ấy.
Không kể ít hay nhiều cũng phải cho bà một chút. Đó là truyền thống của chúng
tôi. Nhiều người trong làng này làm như vậy.
“Bố tôi kể cho tôi nghe một chuyện mà mẹ đã kể
với bố,” Bounkham tiếp tục nói. “Bố nói rằng khi mẹ mang bầu tôi, bà thích ra
phía ngoài làng. Một hôm khi đang đi trên đường mòn, bà tình cờ gặp năm, sáu
người làng vừa đi săn về. Họ đã lột da con nai và bắt đầu chia thịt. Mấy người
thợ săn chia cho mẹ một phần, bằng phần hầu hết mọi người. Đây là quyền của phụ
nữ có bầu, theo truyền thống của làng. Người được phần lớn hơn là người thợ săn
có súng. Anh ta nhận phần gấp đôi, bao gồm cái đầu, bốn chân và bộ da.
Tối hôm đó gia
đình tôi được ăn thịt nai. Gần sáng, mẹ tôi sinh được một thằng, chính nó bây
giờ đang đi bộ về sinh quán của nó.”
Chúng tôi cảm thấy
hết sức thú vị. Một nhà báo hài hước, “Con nai đó hẳn đã tái sinh thành
Bounkham!”
“Dân làng nghĩ vậy
đó. Nếu nai tái sinh thành nai, có lẽ nó lại sẽ bị bắn. Như tôi đã nghe dân
làng nói mãi, rừng trong vùng này chẳng còn con nai nào,” Bounkham nói.
“Tổn thất ghê gớm thiệt,” Tôi thêm, và
Bounkham tiếp tục kể.
“Một bà bầu phải
ăn nhiều để nuôi con trong bụng. Khi bà bầu thấy ai có thức ăn, bà bị cái đói
thôi thúc, tưởng rằng có thể ăn hết một con voi. Một bà bầu đã kể tôi nghe chuyện
này. Và nếu người ta không chia phần cho
bà, bà sẽ không bao giờ quên. Bà sẽ mãi mãi thất vọng về người không có lòng
nhân ái với bà.
“Theo lời bố
tôi, mẹ thương con nai bị bắn. Chính bà không bao giờ ăn thịt thú rừng, nhưng
bà mang phần về để cho chúng tôi được dịp ăn thịt. Từ khi tôi sinh ra, mẹ đặc
biệt thương tôi lắm. Nhưng bà không có dịp để nhìn thấy con trai khi nó trưởng
thành. Bà đặt tên tôi là 91Bounkham, nhưng bà thích gọi tôi là 91Con Yêu Của
Tôi hoặc Con Yêu Của Mẹ.”
Vào lúc ấy,
chúng tôi đến gần cổng làng. Con đường gồ ghề, và cảm thấy phấn chấn bởi câu
chuyện của Bounkham, tôi nhìn lui về hướng của người phụ nữ có bầu. Bà đã đi khuất vào trong cánh đồng, nhưng hình
ảnh bà vẫn còn trong trí nhớ của tôi. Lần
đầu tiên, tôi thấy mình phải có nghĩa vụ giúp đỡ những sinh linh bé nhỏ sắp
chào đời.
ĐI XE ĐẠP KHI TRỜI GIÓ
OUTHINE BOUNYAVONG (Lào)
Nguyễn Khắc Phước dịch.
Đi xe đạp mà gặp trời gió thì thiệt mát mẻ.
Tôi thường tự an ủi bằng cách nghĩ như thế. Mặc dù thoải mái
nhưng chắc chắn là không hấp dẫn bằng đi xe máy hay ô tô, đặc biệt là khi trời
mưa to hay nắng nóng. Dẫu sao, cứ mỗi lần đạp đến nóng người và mệt lã mà có
một ngọn gió hiu hiu thì tôi cũng thích lặp lại với chính mình:
Đi xe đạp mà gặp trời gió thì thiệt mát mẻ.
Dù rất mệt khi đạp xe
trong thời tiết nóng thế này, tôi cũng cảm thấy thương những người phải đợi bên
đường. Tôi nghĩ mình nên chở giúp họ bởi có lẽ họ phải chịu nắng nóng nhiều hơn
tôi. Tuy nhiên tôi không dám đề nghị vì tôi chẳng biết ai, hơn nữa, hoàn cảnh
tôi cũng khó khăn. Đề nghị giúp đỡ người khác khi mình có địa vị cao hơn: đang
đi xe máy hoặc ô tô mà chở giúp người ta thì thích hợp hơn.
Thế rồi một hôm tình cờ có một người chịu đi xe đạp với tôi.
“Chào anh bạn, sức khỏe thế nào? Lâu lắm rồi tôi không gặp
anh đấy nhé. Cho tôi đi nhờ với, được không?” Anh ta vẩy tay ra hiệu cho tôi
ngừng lại và chào hỏi thân mật. Tôi ngạc nhiên không biết mình đã gặp anh chàng
này ở đâu nhưng vì anh ta tiến đến và chào hỏi thân thiện nên tôi cũng phải đáp
lại như vậy. Thế là một trọng lượng hơn năm chục ký thêm vào bánh xe sau và tôi
phải đạp mạnh hơn mới làm cho nó quay.
“Vậy anh đi bao xa?” tôi hỏi.
“Ồ, không xa lắm. Chút xíu là tôi xuống thôi.”
“Tôi không thể chở
anh xa hơn hai cây số bởi tới đó là nhà tôi, được chứ?” tôi cho anh biết trước.
“Ồ, tôi sẽ xuống trước khi tới đó,” anh ta đảm bảo với tôi.
Suốt quãng đường đó, anh ta cứ thao thao về việc tại sao anh
phải đi bộ đến chỗ làm hôm nay. Nhà anh vốn có hai xe đạp nhưng một cái bị hỏng
và chiếc kia thì vợ anh ta dùng để chở quà về thăm làng của chị. Rồi anh ta
khen chất lượng của xe tôi, rằng nó khỏe, dễ đạp và chẳng tốn sức để nhảy lên…
Suốt thời gian anh nói, tôi chỉ nghe và tự hỏi: Anh là ai? Tên gì? Tự nhiên hỏi
lý lịch người ta như vậy cũng kỳ. Có thể anh sẽ trả lời, “Ủa, anh không nhớ tên
bạn cũ à?” Có lẽ anh ta là một người quen cũ của tôi. Nghĩ vậy nên tôi im lặng
mà đạp xe đi.
Chẳng bao lâu anh ta kêu, “Tới rồi, tới rồi! Tôi xuống nhé.”
Tôi không cần phải ngừng xe. Tôi quay lại để nhìn kỹ anh ta trước khi chia tay. Anh ta cám ơn và vẩy tay
chào tỏ vẻ thân mật. Tôi gật đầu và tiếp tục đi. Vì tôi nghi ngờ trí nhớ của
mình nên không quy kết anh ta là người lạ dạn dĩ. Ờ, mà nếu anh ta là người lạ
thì sao nào? Có hại chi đâu. Thực ra, tôi cảm thấy sung sướng khi được giúp một
người hoàn toàn xa lạ đến nơi nhanh hơn anh ta phải đi bộ. Ít nhất cũng giúp
anh ấy đỡ mệt. Giúp đỡ người khác cũng là niềm vui. Tuy nhiên con người có lòng
tự trọng, niềm kiêu hãnh và lối ứng xử cố định trong giao tế xã hội có thể nhận
thấy khi tiếp xúc với người khác, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Người cần
giúp đỡ nhưng không dám hỏi vì sợ bị người ta khinh. Người muốn giúp đỡ lại
ngần ngại vì sợ bị hiểu lầm. Thế nên người cần giúp và người muốn giúp không
gặp nhau mặc dù họ đang đi trên một con đường.
Nhiều ngày sau, khi đang trên đường về nhà dưới cái nắng
tháng Năm nóng bức, tôi thấy một ông lão đứng bên đường. Mắt ông cứ lo lắng nhìn theo những chuyến xe
qua. Khi tôi đến gần, đôi mắt ấy hướng về tôi. Nét mặt và đôi mắt của ông toát
lên vẻ mong được giúp đỡ. Tôi dừng xe và đến gần ông.
“Dạ thưa, bác về đâu ạ? Cháu đang về nhà ở Sikhay. Nếu bác
muốn thì cháu chở bác về nhà ạ.”
“Ồ, vâng. Cho tôi đi với.”
Vậy là tôi chở thêm một người lạ hoắc bằng xe đạp của tôi.
Người này ở xa hơn nhà tôi nhưng tôi cũng quyết định chở đến nơi luôn rồi quay
về nhà mình. Tôi cảm thấy vui và tự nói
với mình:
Đi xe đạp mà gặp trời gió thì thiệt mát mẻ.
Một lần khác, tôi được giao giữ một chiếc xe máy. Một người
bạn nhờ tôi chăm sóc chiếc Honda màu xanh lục của anh khi anh ấy đi công tác về một vùng quê. Vì
anh ấy độc thân, sống trong cư xá công nhân nên anh để tôi sử dụng chiếc xe máy
khi anh đi vắng. Thế là hằng ngày chiếc Honda trở thành phương tiện đi làm của
tôi và tôi chăm sóc nó rất kỹ, tránh bị mất cắp hoặc bị hư. Trong hai tuần tôi
làm chủ chiếc xe đã xảy ra nhiều chuyện hài hước vì sự bất cẩn của tôi và vì
tôi muốn khoe khoang thì đúng hơn.
Tôi gặp một chị khoảng ba mươi, có lẽ hơn tôi chừng bốn hoặc
năm tuổi. Lúc ấy chị đang đợi xe đò ngoài nắng. Chị đang vẩy tay để ngừng xe.
Thoạt đầu tôi nghĩ chị vẩy tôi nhưng đến
khi thấy chiếc ô tô chậm lại mới vỡ lẽ. Chiếc xe đò không ngừng vì đã đầy khách.
Thế nên tôi đổ xe gần chị và nói: “Cái taxi đó đầy rồi nên nó không ngừng. Chị
có muốn tôi chở không? Tôi sẽ đưa chị về
nhà.”
“Kỳ chưa! Sao tôi lại đi với anh?” chị thụt lùi và tỏ vẻ
không đồng ý.
“Chị không phải trả tiền. Tôi chỉ chở giúp chị mà thôi,” tôi
thật thà trấn an chị.
“Không mất tiền tôi cũng không đi với anh, cho tiền tôi cũng
không!”
“Tôi thấy chị đứng dưới nắng nóng, và thực tâm muốn giúp
chị.”
“Thôi, được rồi. Nhưng đừng hòng chuyện gì khác nhé. Cảm ơn,
à không, không cảm ơn.”
Tôi chẳng nấn ná mà phóng đi ngay lập tức, chẳng nhìn lui.
Thái độ của tôi đã bị hiểu lầm. Tôi chẳng đánh giá gì người phụ nữ đó. Từ chối
đi với người lạ là đúng.
Chị ta cẩn thận và cảnh giác. Tại sao một người phụ nữ đàng
hoàng lại ngồi sau xe một người lạ hoắc? Cái câu “Cảm ơn, à không, không cảm ơn” của chị cứ
lảng vảng trong đầu tôi.
Không, tôi chẳng bực mình vì bị hiểu nhầm. Tôi cố nén để
khỏi bật cười khi còn đang chạy xe. Nhưng tôi không từ bỏ việc giúp người bởi
tôi tin ý định của mình là chính đáng. Nếu không thành công lần đầu, tôi sẽ thử
lần hai xem thế nào. Nếu lần hai mà không được hoan nghênh thì tôi sẽ không cố
nữa.
Vào một buổi sáng đang trên đường đi làm bằng xe máy như
thường lệ, khi đến huyện Hua Muong, tôi thấy một phụ nữ trẻ đang đứng bên
đường, một tay cầm cặp lồng đựng thức ăn. Tôi giảm ga để chạy chậm lại và cuối
cùng chiếc xe ngừng cách chỗ chị kia không xa. Tôi xuống xe và làm bộ sửa chữa
chỗ này chỗ kia một lúc. Rồi tôi thử khởi động xe, và vì chẳng hư gì nên máy nổ
ngay. Tôi quay nhìn chị kia, thấy chị có vẻ đang rất lo lắng làm sao để đến nơi
cho nhanh. Vậy nên tôi hỏi: “Xin lỗi, chị đang đợi ai, phải không?”
“Ờ ờ... đang đợi xe đò,” chị trả lời không thoải mái lắm.
“Nếu chị cần đi gấp thì tôi chở chị đi, được không?”
“Ờ ờ… đại để là mang thức ăn cho mẹ ở bệnh viện.”
“Chị có muốn tôi chở chị đi hay không?”
Quá vui vì đề nghị
của tôi, chị nhận lời và cảm ơn. Tôi chở chị đến cổng bệnh viện. Chị
xuống xe và lẩm nhẩm cám ơn lần nữa. Và rồi chúng tôi mỗi người một hướng. Tôi
đến chỗ làm sớm hơn năm phút.
Sau hai tuần, bạn tôi về và lấy lại xe máy. Chiếc xe vẫn còn
nguyên như khi anh ấy giao cho tôi. Bạn
nói sẽ sẵn sàng vui vẻ cho tôi mượn bất cứ khi nào tôi cần. Chúng tôi là bạn
thân từ thời học sinh. Thế là tôi trở lại với chiếc xe đạp của mình. Khi tôi
thấy người cao tuổi đợi bên đường, tôi thường mời họ cùng đi nếu họ đi cùng
hướng và không quá xa. Có người từ chối có lẽ vì họ thấy ngồi trên yên sau xe
đạp không êm ái gì cho lắm. Tuy nhiên tôi không mời chở bất cứ phụ nữ nào trừ
khi họ yêu cầu.
Vào một tối thứ Bảy, tôi đến bệnh
viện để thăm cháu tôi bị sốt xuất huyết. Bệnh dịch này đã lan đến
Viengchan ba tháng rồi. Đợt bùng phát
này bắt đầu từ tháng Năm 1987 và lan khắp nước, được xem là nặng nhất từ trước
tới nay.
Bác sĩ đưa ra nhiều biện pháp
phòng tránh cũng như cách chăm sóc người
bệnh. Trẻ con được khuyên nên uống nhiều nước như nước dừa, nước chanh và nước
trái cây khác.
Một nhóm chừng năm, bảy người đang tụ tập gần khoa nhi.
Người thì đi chăm sóc con cháu, kẻ thì mang đồ đạc đến cho người bệnh. Họ nói
đủ thứ chuyện. Người ta trao đổi về cách chữa bệnh truyền thống, về các tiệm
thuốc tây, về việc đi lại…
“Nếu con tôi được chăm sóc ngay ban đầu, có lẽ nó không nặng
thế này đâu. Phương tiện chở đi khó khăn quá. Nó bị sốt chiều hôm trước, nhưng
đến ngày hôm sau mới có xe để đưa nó đi viện!” một người lo lắng than thở.
“Tôi không dám liều
vậy đâu. Khi thằng bé hơi bị sốt là tôi chạy đến chú ấy ngay. Rất may là hàng
xóm có ô tô. Bất cứ khi nào có trẻ ốm là chúng tôi nhờ chú ấy. Chú tử tế lắm và
thường đưa chúng tôi đến đây hết sức nhanh chóng!” một người khác nói với vẻ
biết ơn.
“…Ai? Tôi hả? Tôi đến
đây để hiến máu cho cháu tôi nhưng rủi thay tôi không cùng nhóm máu với cháu,
vậy nên tôi quyết định hiến máu cho cháu nằm bên cạnh. Mọi người đều cần máu.
Ước gì tôi có nhiều máu để ai cần thì cho.”
Rồi giọng một bà nói: “Tôi cũng vậy. Việc đi lại đối với tôi
rất khó khăn. Tôi làm gì có nhiều tiền để đi bằng xe đò mãi thế này, đặc biệt
là tôi có hai đứa cùng đau một lúc. Ngày hôm kia, con gái lớn của tôi đợi xe đò
để đến đây mãi mà không có. Thế rồi một chú đi xe máy ngừng lại và ngỏ ý chở
giúp nó nên nó đến đây thật nhanh. Quý chị thấy đấy, trên đời vẫn còn nhiều
người tử tế lắm.”
Thật khó tin người đi xe máy đó là tôi vì cái việc đó đã xảy
ta nhiều tháng trước. Có thể bà ấy cần có chuyện để nói và cứ lặp đi lặp lại
cùng một chuyện, khiến dường như nó vừa mới xảy ra hôm qua hoặc hôm kia. Thực
sự tôi không nghĩ bà ấy nói về tôi. Có thể một người khác đã chở giúp con gái
bà ấy. Tuy vậy, tôi cũng cảm thấy vui
khi được nghe chuyện về những người tử tế và hào phóng.
Thế nên bất cứ lúc nào đi xe đạp, cho dù đôi khi không có
gió, tôi vẫn thấy mát trong lòng.
Outhine Bounyavong (Lào)
Nguyễn Khắc Phước dịch.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét