Trong kho tàng văn học dân gian Nam Bộ,
có một bộ tác phẩm thơ chữ Nôm với dung lượng đồ sộ mà đến nay vẫn chưa có nhiều
công trình đề cập đến. Đó là Kim cổ kỳ
quan - tác phẩm vô cùng giá trị trong lòng những người tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương. Ông Nguyễn Văn Thới - tác giả của nó cũng là một “ông đạo” nổi tiếng của
tôn giáo nội sinh nầy. Nội dung tác phẩm không chỉ chuyển tải giáo lý của đạo,
mà còn phần nào phác họa tình hình xã hội và trạng thái tâm lý của người dân
Nam Kỳ trong buổi đầu thuộc Pháp. Tuy nhiên do mang màu sắc tôn giáo, khiến Kim cổ kỳ quan đến nay vẫn chưa được
chú ý nghiên cứu sâu và đánh giá đầy đủ. Bên cạnh đó, trong giai đoạn giao thời
giữa Nho học và Tây học, văn chương trên vùng đất mới phương Nam trước nay bị
lãng quên, việc nghiên cứu Kim cổ kỳ quan
như một đóng góp nhỏ cho quá trình bổ khuyết khoảng trống đó.
2. Vài nét về tác giả
Nguyễn Văn Thới (1866 - 1927) được
dân gian gọi là ông Ba Thới, quê ở làng Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh, quận Cao
Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1906, ông
tìm đến vùng Láng Linh (nay thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) quy y với ông
Hai Nhu theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Bửu Sơn Kỳ Hương là tôn giáo bản địa
đầu tiên ở Nam Kỳ do Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856) lập năm
1849. Sau đó, đại đệ tử của Phật Thầy là Chánh Quản cơ Trần Văn Thành tiếp tục
truyền bá mối đạo, đồng thời cũng là thủ lãnh nghĩa quân Gia Nghị trong cuộc khởi
nghĩa Bảy Thưa chống Pháp (1867 - 1873). Ông Hai Nhu tức Trần Văn Nhu (1847 -
1914) là con trưởng của Trần Văn Thành, sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông
vân du đây đó, tiếp tục nối chí cha vừa truyền đạo vừa chiêu mộ hiền tài.
Sau khi đến quy y, ông Ba Thới đưa cả
gia đình đến sống ở Láng Linh vào năm 1907. Từ đó đến năm 1910, ông Ba Thới
sáng tác ba quyển Vân Tiên, Thiện từ, Cổ
vãng kim lai [Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu 1955]. Đầu năm 1913, ông Hai Nhu
tập trung tín đồ về Bửu Hương tự ở Láng Linh làm lễ tưởng niệm ngày nghĩa binh
Gia Nghị bị đàn áp, Pháp hay tin đã kéo vào vây bắt nhiều tín đồ. Ông Ba Thới
may mắn thoát thân, nhưng phẫn uất vì thời thế nên ba ngày sau ông trở về nhà cắt
cổ tự tử. Gia đình phát hiện kịp nên đã đưa ông vào nhà thương Châu Đốc điều trị.
Dân gian kể lại, tại đây ông đã cự tuyệt không dùng bất cứ món gì của người
Pháp, song sau khi về nhà điều trị thuốc Nam, vết thương của ông dần thuyên giảm.
Năm 1914, gia đình ông rời Láng Linh
dọn về nơi cư trú mới ở doi Lộ Lở thuộc làng Kiến An, tổng Định Hòa, quận Chợ Mới,
tỉnh Long Xuyên (nay thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Trong những năm tháng
cuối đời, ông viết thêm các quyển Ngồi buồn,
Kiểng tiên, Kim cổ, Cáo thị, Tứ đại,
Thừa nhàn [Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu 1955].
3. Tổng quan về tác phẩm
Kim cổ kỳ quan
là bộ tác phẩm gồm 9 quyển: Kim cổ, Giác
mê, Cáo thị, Vân Tiên, Ngồi buồn, Bổn tuồng, Thừa nhàn, Tiền Giang, Kiểng tiên.
Theo kết quả khảo sát của Lý Hồng Phượng [2017], trọn bộ 9 quyển Kim cổ kỳ quan có tổng số khoảng 23.729
câu (chưa tính phần bị mất hay cháy), gấp trên 7 lần Truyện Kiều.
Tuy nhiên, tên 9 quyển trong bộ Kim cổ kỳ quan lưu hành hiện nay không
giống với tên 9 quyển từng được một số nhà nghiên cứu trước đây đã liệt kê [Dật
Sĩ & Nguyễn Văn Hầu 1955; Vương Kim 1965]. Cụ thể, các ấn bản hiện nay có
ba quyển Giác mê, Tiền Giang, Bổn tuồng,
trong khi một số tài liệu thời trước lại kể ba quyển Tứ đại, Thiện từ, Cổ vãng kim lai - đây là điều cần được nghiên cứu
thêm. Riêng quyển Giác mê có lời văn
trau chuốt thoát tục, Vương Kim và Đào Hưng [1953] cho rằng đây là tác phẩm Đức
Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên.
Về nội dung, các tác phẩm đề cập đến
nhiều vấn đề khá đa dạng từ chuyện xưa, chuyện thời tác giả đang sống, đến những
chuyện tương lai. Theo chúng tôi cho rằng, Kim
cổ kỳ quan xoay quanh ba nhóm đề tài chính gồm: (1) Miêu tả cuộc sống sắp tới
đầy rẫy tai ương, (2) Phác họa đời sống tốt đẹp trong tương lai, (3) Khuyên con
người rèn luyện để hướng đến đời sống mới.
Về hình thức, các tác phẩm được viết
bằng nhiều thể loại như lục bát, song thất lục bát, thất bát, thất ngôn, bát
ngôn, tự do… Nhiều cách thể hiện mới mẻ đã làm phong phú thêm cho văn học bình
dân miền Nam. Ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm kết hợp hài hòa giữa tính
bác học và tính bình dân. Nếu như ngôn ngữ bác học nhằm thể hiện tính chất
trang trọng của tác phẩm mang màu sắc tôn giáo, thì bên cạnh đó ngôn ngữ bình
dân được sử dụng để tác phẩm dễ đi sâu vào lòng người dân lao động.
Nguyễn Ngọc Quận
[2017b] nhận xét: “Một phần do lối nói mang phong cách đặc thù của một tác giả
người Nam Bộ nói chung, một phần để tránh tai mắt của nhà đương cục, Nguyễn Văn
Thới tìm lối ‘nói bắt quàng’ hay ‘Lời nói bắt quàng không hàng ngũ’, rất tuỳ tiện,
khiến người nghe cảm thấy dường như thiếu mạch lạc, cảm thấy ‘ma ma Phật Phật’
(chữ dùng trong KCKQ). Nhiều đoạn thơ được viết dưới dạng lặp ý, lặp từ ngữ là
nhằm nhấn mạnh ý tưởng vốn không dễ trình bày bởi nhiều lý do.”
4. Giá trị tư tưởng của Kim cổ kỳ
quan
Trước tiên, do tác phẩm ra đời trong
hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, dân chúng phẫn uất trước chế độ cai trị của
Pháp, nội dung đã phản ánh phần nào bối cảnh xã hội đương thời. Bên cạnh đó là
những lời tiên tri về chiến tranh, mất mùa, đói khổ, thiên tai, chết chóc… sẽ
diễn ra. Chẳng hạn “Thây không lấp mà để phơi khô/ Không nước mà uống nam mô đạo
nào” hay “Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai/ Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá”…
Song, sau những hiểm họa đó sẽ là một
tương lai tươi sáng cho dân tộc. Tác giả bày tỏ niềm lạc quan về một “đời thạnh
trị” trên đất nước Việt Nam: “Của người Tây trả cho người Tây/ Tân trào phế luật
thẳng ngay rõ ràng” hoặc “Nơi
nơi đều ngợi chữ thảnh thơi/ Ca ngâm xứ xứ vui chơi thanh nhàn”… Con người của
đời sống mới là những người tài giỏi: “Sau nước Nam ít kẻ vụng về/ Thông minh
trí huệ nhiều nghề giỏi hay” hoặc “Con mắt sao ngó thấy sáng ngời/ Trong như
mắt cọp miệng cười ngọt thơm/ Răng thì trắng thiệt người ăn cơm/ Lưỡi sao răng
vậy gạo thơm ngọt ngào”…
Để hướng đến đời sống mới như thế,
tác giả khuyên con người tu hành, làm điều thiện, noi theo những tấm gương tốt:
“Nói trong Lục tỉnh bây giờ/ Làm lành niệm Phật mà chờ đợi vua” hay “Đền ngọn
rau tất đất mới ưng/ Thờ cha kính mẹ vạn xuân tuổi trời/ Khá noi theo Nghiêu
Thuấn ở đời/ Không nhà đóng cửa lập đời thanh nghiêm”… Đồng thời, tác phẩm cũng
răn đe kẻ ác: “Lòng dân tâm quỷ tánh ma/ Mười người xuống chốn Diêm La chín người”
hay “Chớ đừng bạc nghĩa phi ân/ Phật trời nay đã cầm cân công bình”…
Để đáp ứng được tâm
lý của quần chúng nhân dân, tác giả Nguyễn Văn Thới đã khéo léo đưa giáo lý Bửu
Sơn Kỳ Hương vào bộ tác phẩm đồ sộ của mình, với tư tưởng chủ đạo là đời Hạ
nguơn sắp chấm dứt - tận thế, hội Long Hoa sẽ diễn ra tại vùng “linh địa” Thất
Sơn (An Giang) để lập đời mới Thượng nguơn. Điều đó được thể hiện qua rất nhiều
câu, chẳng hạn như “Bề nào hội thí Thất Sơn/ Biết rằng quân tử tiểu nhơn vuông
tròn” hay “Vận nghèo ai chẳng phi ơn/ Của trời Phật để Thất Sơn thiếu gì”…
Tuy nhiên nhìn chung, bàng bạc trong Kim cổ kỳ quan vẫn là tâm lý ưu thời mẫn
thế của một người thất chí trong cơn ly loạn của đất nước: “Đêm năm canh thổn
thức chẳng yên/ Ngày sáu khắc sầu riêng mối đạo/ Tưởng ái quốc cơ đồ sáng tạo/
Nhìn lê dân cường bạo đa đoan/ Chúa mỏi lòng chúa nghỉ thân an/ Tôi mệt dạ còn
mang nạn cả/ Thời quân nhược quả kia báo quả/ Thế thần cường giày giã trung
cang”. Toàn bộ nội dung tác phẩm mang tính định hướng cao, nhắc nhở con người về
các giá trị đạo đức, chân - thiện - mỹ, tứ ân (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước,
ân tam bảo, ân đồng bào nhơn loại)…
Theo Nguyễn Ngọc Quận
[2017a], người Nam Bộ mến mộ tác phẩm Kim
cổ kỳ quan vì “họ có thể tìm thấy ở đó tấm lòng ưu thời mẫn thế, kiên
trinh, tiết tháo của tác giả, tinh thần từ bi bác ái, khuyến thiện trừng ác,
yêu nước thương dân, chống ngoại bang xâm lược…, vì đó đều là những nội dung
tích cực, phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc cần được nghiền ngẫm, phổ biến
và lưu truyền cho con cháu.”
5. Thay lời kết
Qua những giới thiệu sơ bộ nêu trên,
chúng tôi hy vọng cung cấp thêm cái nhìn tổng quan nội dung tác phẩm, đặc biệt
là phải đặt nó trong bối cảnh thuộc địa đầu thế kỷ XX để hiểu hơn giá trị mà những
áng thơ bình dân nầy mang lại. Với hàng chục ngàn câu được viết lần lượt qua
khoảng thời gian dài, tác giả đã thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, đau
thương trước tình cảnh nước mất nhà tan, nhưng cũng mong ước đến một ngày mai tốt
đẹp cho dân tộc và quan trọng hơn cả khuyên nhủ mọi người hướng thiện. Qua việc
nghiên cứu tác phẩm nầy, không chỉ giúp người đời sau hiểu thêm về tư tưởng của
tôn giáo bản địa Bửu Sơn Kỳ Hương, bổ sung thêm tư liệu phong phú về dòng chảy văn
học dân gian đồng bằng sông Cửu Long buổi đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây,
đồng thời giúp chúng ta phần nào hình dung cụ thể hơn về tình hình xã hội Nam Kỳ
buổi ấy.
––––––––––––––––––––
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu (1955), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb Liên
Chính.
2. Lê Duy Phương (2004), Tổng luận Sấm ký của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm và Kim cổ kỳ quan của ông Ba Thới, Tập tài liệu đánh máy.
3. Lý Hồng Phượng (2017), Chữ Nôm Nam Bộ qua khảo sát tác phẩm Kim
cổ kỳ quan của Nguyễn Văn Thới, Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm, Trường ĐH KHXH&NV.
4. Nguyễn Ngọc Quận (2017a), “Kim cổ kỳ
quan, một bộ thơ Nôm độc đáo ở miền Tây Nam Bộ”, Website Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV
(www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn), 10/1/2017.
5. Nguyễn Ngọc Quận (2017b), “Kim cổ kỳ
quan trong đời sống tâm linh của người dân Nam Bộ”, Website Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV
(www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn), 15/1/2017.
6. Nguyễn Văn Thới, Kim cổ kỳ quan, Tập tài liệu đánh máy.
7. Vương Kim
& Đào Hưng (1953), Đức Phật Thầy Tây
An, Nxb Long Hoa.
8. Vương Kim
(1965), Tận thế và Hội Long Hoa, Nxb
Tân Sanh.
VĨNH THÔNG
––––––––––––––
BÔNG
TRÀM CHUYÊN ĐỀ 21
>>
Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh bên dưới để vào mục lục <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét