Tôi dừng xe máy bên vệ đường để tránh lối
cho một đám tang. Đoàn người kéo dài trong im lặng, nghiêm trang. Đợi cho đám
tang đi qua, tôi định lên xe thì thấy cháu tôi trong đoàn người. Tôi liền cất
tiếng:
- Ê, Thắng! Đám tang ai vậy cháu?
- Thằng Hoang bạn cháu! Nói rồi nó vội vàng
chạy đi…!
Tôi đi theo đám đông ra nghĩa địa, nơi an
táng thằng Hoang. Huyệt đã đào xong. Mọi nghi lễ được tiến hành. Chiếc quan tài
vừa hạ xuống, tôi cùng mọi người xúm lại bỏ cho nó nắm đất để vĩnh biệt. Tội
nghiệp, nó là một đứa con hoang bị bỏ rơi… không có gia đình.
Ngày đó thằng Hoang đang còn đỏ hỏn như
miếng thịt bò, nhỉnh hơn bắp chuối một tí. Chị Mai đã nhặt nó trong một chiếc
thùng tôn nơi đống rác. Một bé trai quấn trong tả lót, da nhăn nheo, miệng đang
khát sữa khóc nấc từng cơn, chị sợ, mặt tái xanh định bỏ chạy. Nhưng tiếng khóc
đã níu chân chị lại. Chị lấy nón úp lên người nó và bế về. Chị Mai sống độc thân
trong căn nhà lá đầu xóm. Ngày xưa, chị cũng là cô gái xinh đẹp trong vùng.
Nước da trắng ngần, khuôn mặt trái xoan, mái tóc đen mượt thoảng thơm mùi hương
bưởi, trai làng anh nào cũng muốn tán tỉnh. Từ ngày đi Thanh niên xung phong
về, những cơn sốt rừng dai dẳng đã làm tàn phai nhan sắc của chị. Không có anh
nào lui tới, chị đành ở vậy. Hôm nghe tin
chị nhặt được đứa con bỏ rơi, hàng xóm đến chơi chật nhà, mừng cho chị từ nay
có trẻ con chị sẽ vui thêm. Ngày chị lên Ủy ban trình báo và khai sinh cho nó,
chị cứ lúng túng không biết đặt tên là gì, rồi chị cứ khai cho nó cái tên là
Hoang.
Cu Hoang lớn lên trong sự yêu thương của
chị Mai, sự đùm bọc của chòm xóm, lớn lên nhờ củ khoai, củ sắn, con tép, con ốc
mà mẹ nó kiếm được. Khi nó được mười ba tuổi, chị Mai cứ ốm vặt. Bẵng đi một
thời gian, chị ngã bệnh nặng. Bác sĩ cho biết chị bị ung thư. Như sét đánh
ngang tai, chị quay cuồng trong đau khổ, tuyệt vọng. Không phải chị uổng, tiếc thương
cái thân chị mà chị thương cho thằng Hoang rồi đây không ai chăm sóc, không ai
giúp nó học hành…
Cái
ngày chị Mai qua đời, thằng Hoang cứ ngơ ngơ, ngác ngác như gà mất mẹ. Nó sinh
ra lầm lì, ít nói, cáu kỉnh. Rồi nó bỏ học. Nó trở thành đứa cô đơn, không nơi
nương tựa. Nó lên chợ ăn xin, ai cho gì cũng lấy, thấy gì cũng xin. Tội nhất là
mấy ngày mưa, đầu trần đội trời, quần áo ướt tả tơi, không ai cho nó gì cả, cơn
khát, cơn đói cứ dày vò cái dạ dày làm cho nó muốn ăn cắp quá! Nhưng tâm trí nó
cũng cưỡng lại được, nó không muốn mang tiếng con của người có công cách mạng
lại đi ăn cắp. Nó đành cho cái dạ dày kêu gào, nó đành uống nước lã cho căng
bụng thay cơm…
Tôi sang nhà anh chị chơi và thăm các cháu.
Gặp thằng Thắng ngay đầu cổng, tay cầm thẻ nhang. Thấy tôi, nó mừng rối rít:
-
May
quá! Gặp chú đây rồi, cháu định sang nhà rủ chú cùng đi.
-
Đi đâu
vậy?
-
Đi
thắp nhang cho thằng Hoang! Nói dứt lời không để cho tôi kịp phản ứng nó kéo
tôi đi luôn.
Hai chú cháu đi nhanh ra nghĩa địa. Trên mộ
thằng Hoang, ánh lửa tàn nhang đang còn lập lòe, hình như có ai cũng vừa thắp
nhang cho nó. Thắng đưa bật lửa cho tôi, nó đi tìm được một nắm cỏ khô làm mồi
cho nhang bén lửa nhanh hơn. Tất cả những thao tác của nó như người từng trải. Đột
nhiên, nó quay sang tôi và bảo:
- Chú thắp nhang khấn vái mà xin lỗi thằng
Hoang về cái vụ chú lở tay đánh nó dạo trước đó!
Đúng rồi! tôi nhớ lại cách đây không lâu,
tôi về quê. Trên đường đi có một đoạn lầy
lội xe khó đi qua, tôi nhờ một toán trẻ con đẩy giúp. Tôi dựng xe, cảm ơn chúng
nó và đi rửa tay. Tự dưng nghe tiếng xì rất mạnh phát ra từ chiếc xe. Tôi vội
chạy lại xem. Một chiếc lốp xì hơi lép kẹp, chiếc xe mất thế đổ kềnh. Bọn trẻ
con hốt hoảng bỏ chạy. Tôi đuổi theo túm lấy một đứa trong bọn, đó là thằng
Hoang. Trong tay nó đang cầm một chiếc đinh còn mới. Bụng bảo dạ, thằng này đâm
thủng lốp rồi hoảng quá bỏ chạy đây. Chưa hỏi han gì tôi đã tát cho nó một cái
“bốp” rất đau. Nó mếu máo rồi òa khóc: “Chú! Chú… sao chú laị đánh cháu… cái
đinh này..!” Không chờ nó nói hết, tôi quay lại dựng xe và đẩy về. Hôm sau,
nghe Thắng kể lại là cái đinh găm vào lốp xe của tôi từ trước, thằng Hoang thấy
vậy liền lôi chiếc đinh ra. Tiếng xì của chiếc lốp làm bọn chúng hoảng quá mà
bỏ chạy. Tôi cứ thấy ân hận đã lỡ tay đánh thằng bé, muốn xin lỗi nó nhưng chưa
gặp. Vậy mà giờ đây thằng bé đã ra đi, mong chút lòng thành này, thằng bé sẽ
tha lỗi cho tôi!
Hai chú cháu đã làm xong những thủ tục cần
thiết. Thằng Thắng ngồi bệt bên nấm mồ, tay cầm hòn đất còn mới mân mê trong
tay, miệng lẩm bẩm: “Thương mày lắm Hoang ơi!...”. Kéo tôi ra ngồi xuống vạt cỏ
gần bên nấm mồ, Thắng kể chuyện thằng Hoang cho tôi nghe.
… Bà Tám, người hàng xóm sang nhà thằng
Hoang, thấy nó đói lả, ngất xỉu trong bếp. Bà hô hoán mọi người đến giúp đỡ.
Người xoa dầu, người cho uống nước, một lúc nó tỉnh dần. Bà Tám nấu cháo cho nó
ăn và đưa nó về nhưng nó lắc đầu. Bà biết tính khí thằng bé lì đòn lắm nên bà
chẳng nài. Bà sang chăm sóc nó được mấy hôm thì nó khỏe lại. Bà bảo:
- Từ nay, cháu sang chăn trâu giúp bà, thay
chị Tí đi học trường huyện nhé.
- Dạ! Thằng Hoang lí nhí đáp.
Thắng lớn hơn Hoang một tuổi, hai đứa cùng
học một lớp và rất thân nhau. Từ ngày Hoang bỏ học Thắng vẫn thường qua lại
chơi với nhau, bày cho Hoang học, có miếng bánh, tấm quà hai đứa cùng chia
nhau. Cái Nụ, con bà Tám thương Hoang lắm. Mỗi lần mẹ bảo Nụ đưa cơm cho Hoang,
lúc nào Nụ cũng kiếm miếng ngon thêm vào.
Hôm nay trời mát, mấy con trâu ngoan ngoãn
gặm cỏ. Hoang đang nằm bên bụi cây nghĩ ngợi mông lung, mắt đang thiu thiu thì
nghe tiếng ồn ào trên đê.
- Ê! Con nhỏ! Cái gì mà xách nặng vậy? Đưa
lại đây cho tụi tao coi! Mấy đứa đi học về gặp Nụ đưa cơm cho Hoang nên chặn lại hỏi.
- Em đưa cơm cho anh Hoang mà! Cái Nụ nói
như mếu.
Rồi chúng nó xông vào giằng co túi cơm với
Nụ. Một đứa giật mạnh, túi cơm văng ra, cơm canh đổ lăn lốc trên đê. Thằng
Hoang chạy nhanh đến, không nói không rằng cầm cái gậy chăn trâu đánh mạnh vào
đứa lớn trong bọn. Mấy thằng vật thằng Hoang đè ngửa xuống, đứa đấm, đứa tát. Thằng
Hoang cũng không vừa, nó khua tay trúng viên đá, rồi nhằm vào đầu đứa đang đè
ngực nó đập mạnh, máu chảy tứa ra. Cả bọn thấy thế hoảng hồn đứng cả dậy. Lúc
này Thắng cũng vừa đến kịp, lên tiếng:
- Chúng mày hãy thôi ngay thói bắt nạt
người khác đi! Nói xong, nó nhổ nắm cỏ
hôi nhai ngấu nghiến đắp vào vết thương cho bạn trong sự ngỡ ngàng của cả bọn.
Một buổi sáng, thằng Hoang lùa bầy trâu đi ngang qua đầm làng, nó dừng lại xem mấy
chiếc máy hút bùn đang hoạt động. Tiếng máy chạy ầm ầm, bùn theo dòng nước chảy
tràn lên ruộng. Người ta vét đầm để làm gì nhĩ? Có lẽ để chống hạn! Nó vừa hỏi
vừa tự trả lời, rồi tư lự. Đầm sâu thế này trẻ con đến tắm nguy hiểm lắm!
Mấy hôm nay nắng nóng. Mới sáng, ông mặt
trời đã dậy từ lâu mang theo khối lửa đỏ au chiếu xuống làm mặt đất rực lên.
Càng trưa, cái nóng oi nồng càng bức, phả vào mặt rát bỏng. Một nhóm học trò đi
học về sớm, ngang qua đầm thấy nước trong xanh liền rủ nhau xuống tắm. Từ xa,
Hoang thấy thế liền chạy lại để can ngăn chúng. Vừa tới nơi, thằng lớn trong
đám học trò hôm nọ thấy Hoang liền bảo:
- Oắt con! Đến để gây sự nữa hả! Cút đi để
chúng tao tắm.
Hoang tức giận bỏ đi nhưng lòng nó thấy
không yên. Mấy đứa cũng không bận tâm đến Hoang nữa, chúng cùng nhau nhẩy tùm
xuống đầm. Đi được mấy bước, Hoang nghe tiếng “Cứu! Cứu…với…”. Hoang quay lại
thì thấy hai ba đứa chới với, còn lại mấy đứa biết bơi lao nhanh vào bờ. Không
kịp suy tính, Hoang nhảy xuống, lặn một hơi như rái cá, kéo lên được một đứa.
Bọn trẻ hoảng quá không kịp mặc quần áo chạy về làng gọi người lớn ra cứu.
Hoang nghỉ sức, lại lao xuống, ngụp lặn một hồi kéo lên một đứa nữa. Thằng
Hoang thấy thấm mệt, mặt tái xanh, nó thấy đói lắm rồi. Từ sáng nó vội đưa trâu
ra đồng sớm để cày nên chưa lót dạ gì. Nghỉ một lúc, nó laị lao xuống đầm. Trong xóm, từng đoàn người lủ
lượt chạy ra. Người lớn chạy đến cấp cứu cho hai đứa, một lúc thì hai đứa tỉnh
lại. Một số người biết bơi lao xuống để
cứu đứa còn lại. Một lúc sau, họ cũng kéo được lên bờ. Người xóc nước, người hà
hơi mong sao thằng bé qua khỏi. Thằng Thắng cũng vừa đến kịp, nó hỏi: “Thằng
Hoang, thằng Hoang đâu?”. Lúc đó mọi người mới sững sốt nghĩ đến Hoang. Thế là
mấy thanh niên sức lực, bơi giỏi lại lao xuống đầm. Lặn một hồi không thấy
Hoang đâu, họ lên bờ lấy lại sức rồi lao xuống tìm kiếm…
Khi thằng Hoang được đưa lên bờ thì cái xác
đã tím tái, tay chân lạnh ngắt. Mọi người đưa thằng Hoang về và làm các thủ tục cần thiết
cho một người qua đời. Kể đến đây, Thắng
chép miệng:
- Thật tội nghiệp! Thằng Hoang ra đi quá
sớm, một cái chết oan uổng, nhưng cũng thật ý nghĩa phải không chú!
Ngọn gió thoảng qua, sương khuya đã giăng
giăng bao phủ màn đêm. Tôi và thằng Thắng chậm rải trên con đê đầu làng. Lòng
tôi như thấy có cái gì nghèn nghẹn. Một con người tốt như Hoang mà không có
được một cuộc sống trọn vẹn, thật chua xót. Trời về đêm càng tĩnh mịch, yên ắng
nhưng tôi nghe như có tiếng văng vẵng bên tai: “Chú ơi! Hãy có lời cảnh báo về
cái đầm “tử thần” để các bạn cháu không ai bị đưối nước nghe chú!”
Quán Hàu, tháng 3 năm 2019
Nguyễn Đại Duẫn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét