 |
Thích Tín Thuận - Châu Thạch |
Bữa cơm giữa chùa quê
Hè nắng đổ sân chùa như rực lửa
Bảng hổi lên hiệu báo bữa cơm thường
Những não phiền bao hệ phược vấn
vương
Tạm ngưng nghỉ để nhường đường trai
ngọ
Cơm một bát tròn xoe in để đó
Dĩa muống rau mềm mại ngó mà vui
Miếng đậu tương trắng toát thiệt rõ
bùi
Canh bí đỏ thêm lạc vùi thơm tháp
Nâng ngang trán một lòng y như pháp
Ngọt đắng cay chua mặn nhạt cúng
dường
Rõ trần ai khổ vô ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ trò thương hải
biến
Búp sen mở cánh xòe trên bảo điện
Nỗi buồn lo vừa đổi chuyển lạc an
Sáu căn trần dạ chẳng buộc duyên
phan
Cùng sáu thức quẳng mơ màng trôi nổi
Cơm một bát đủ ấm lòng ba buổi
Kinh vẹn thì lục khắc với năm canh
Nguyện một lòng soi rọi giúp quần
sanh
Thuyền Bát nhã đáp vương thành tịnh
thổ
Trưa hè nắng nhưng mồ hôi chẳng đổ
Bát cơm lành trưa đúng ngọ cùng
dâng…
02.06.2016
Nhà sư Thích Tín Thuận, chùa Chính Phước, Hải Lăng, Quảng
Trị, là một một nhà thơ Phật Giáo mà tôi ái mộ. Tôi có duyên cùng với nhà thơ
Trần Văn Hạng (Đồng Hà) được thăm thầy một lần. Trưa hôm đó, hai chúng tôi được
thầy chiêu đãi bữa cơm chay. Bữa cơm mời đột xuất cho nên rất thanh đạm nhưng
tôi lại nhớ mãi. Thú thật, trong đời tôi, lần đâu tiên được ăn bữa cơm “thanh tịnh” như thế, thanh tịnh vì chùa
yên lặng mà trong lòng tôi cũng bình tịnh, an vui, thoát tục.
Trưa hôm nay, tôi lại đọc được bài
thơ “Bữa Cơm Giữa Chùa Quê” của thầy
làm tôi sống lại một giờ năm ấy, trong ngôi chùa quê ấy, với bữa cơm nhà Phật
cho tôi cảm thụ điều thú vị khác lạ mà tôi khó tìm được trong đời.
Bài thơ của thầy rất rõ ràng, không có ẩn dụ gì, không có từ
ngữ khó hiểu như thơ của các nhà sư hay các cư sĩ thường làm. Tuy thế trong thơ
thầy, ẩn chứa một thứ hương thiền nhẹ nhàng, khiến khi đọc, tâm hồn ta tự nhiên
thanh thản, trút hết “Những não phiền bao
hệ phược vấn vương” như một câu thơ trong khổ thơ đầu sau đây:
Hè nắng đổ sân chùa như
rực lửa
Bảng hổi lên hiệu báo bữa
cơm thường
Những não phiền bao hệ
phược vấn vương
Tạm ngưng nghỉ để nhường
đường trai ngọ
“Trai ngọ” là gì?
Đó là bữa ăn trưa của các vị tu hành. Bữa ăn trưa của quý thầy thường được gọi
là “Thọ trai”. Thọ là thọ dụng, là
nhận, ăn hay dùng…. Trai là đời sống thanh tịnh, thiền định và trí huệ. Thọ
trai là thọ dụng thức ăn nuôi sống thân tâm bằng đời sống thanh tịnh, phẩm
hạnh, giới đức, thiền định và trí hụê.”
“Ngày Phật còn tại thế, phần lớn quần chúng theo Bà La Môn
và tu Tứ Thiền Bát Định, nhiều vị tu hành chỉ chăm chú vào thiền định mà lại
không coi trọng ý nghĩa Giải Thoát. Có người thì ngồi thiền định mãi chẳng ăn
uống rồi bỏ thân, có vị thì mê say trong lạc thú của thiền định an vui cho tự
thân, chẳng gieo duyên giáo hóa; có vị thì ăn uống phi thời trở thành phóng
dật, chẳng giữ oai nghi… Vì thế, Phật từ bi chế Giới Ngọ Trai.
Ngọ Trai có hai phần là thọ thức ăn và giữ ngọ trai (ăn đúng
giờ Ngọ)”
Khổ thơ trên cho ta biết rằng các nhà sư không phải như ta,
được gọi thì ngồi vào ăn bất cứ lúc nào mà ngược lại, họ phải ăn vào giờ ngọ
tức khoản từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều. Khi được báo ăn, việc làm đầu tiên
của họ là “Những não phiền bao hệ phược
vấn vương/Tạm ngưng nghĩ để nhường đường trai ngọ”.
Dầu người Phật tử hay người không Phật tử, tôi nghĩ nếu cũng
buông bỏ được như quý thầy trước phút ngồi vào bàn ăn thì thức ăn sẽ thấy ngon
hơn, tiêu hóa sẽ tốt hơn và tất nhiên niềm vui sẽ len vào ngự trị tâm hồn ta
lúc đó.
Bây giờ xin hãy nhìn vào bữa ăn của tu sĩ được mô tả sau đây:
Cơm một bát tròn xoe in để
đó
Dĩa muống rau mềm mại ngó
mà vui
Miếng đậu tương trắng toát
thiệt rõ bùi
Canh bí đỏ thêm lạc vùi
thơm tháp
Đúng như vậy, bữa ăn mà thầy Thích Tín Thuân mời chúng tôi
tại chùa Chính Phước năm nọ cũng tương tự thế. Tôi còn nhớ có một món rất đặc
biệt: Bẹ môn dầm muối (dưa môn) chấm nước tương. Chúng tôi ăn hoài ăn mãi, đến
nay nhớ lại thì thèm. Những món ăn này không phải ngoài đời không có, nhưng sao
ăn trong chùa nó trở nên rất ngon. Có lẽ nhà chùa biết dầm muối đúng cách là
một, cái ngon tâm lý trong lòng mình là hai, cọng cả hai cái lại làm cho bữa ăn
thành ra rất tuyệt. Chỉ thiếu một điều là thầy thì “thọ trai” còn chúng tôi là “ăn
trưa”. Tuy thế, nhờ vậy tôi cũng hiểu được một chút hương vị của buổi “thọ trai” như thế nào. Tôi nghĩ, buổi
trưa hôm ấy, nếu tôi mà cũng “Trai Ngọ”
được như thầy chì chắc trong bữa ăn, tâm thần tôi sẽ an vui hơn nữa, linh hồn
tôi sẽ nhẹ như một tờ giấy trắng.
Khổ thơ thứ ba cho ta biết bữa ăn của người tu hành còn
nhiều thủ tục phiền phức khác ta rất nhiều:
Nâng ngang trán một lòng y như
pháp
Ngọt đắng cay chua mặn nhạt
cúng dường
Rõ trần
ai khổ vô ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ trò thương hải biến
“Nâng ngang trán một
lòng y như pháp” nghĩa là ngoài những thủ tục mà người tu hành làm trong bữa
ăn thì tâm thần phải giữ cho bửa ăn phải là “Bữa cơm chánh niệm” đúng như trong Phật pháp đã dạy. Bữa cơm chánh
niệm đó, thầy, tác giả bài thơ đã giãi thích một phần nào trong hai câu thơ
cuối của khổ thơ nầy và cả khổ thơ sau:
Rõ trần ai khổ vô ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ trò thương hải biến
Búp sen mở cánh xòe trên bảo điện
Nỗi buồn lo vừa đổi chuyển lạc an
Sáu căn
trần dạ chẳng buộc duyên phan
Cùng sáu thức quẳng mơ màng trôi nổi
Trước khi hiểu ý nghĩa của những câu thơ trên đây, ta phải
tìm hiểu ý nghĩa của “sáu căn trần”
và “sáu thức” mà tác giả đã đề cập
đên trong khổ thơ trên.
“Trong 49 năm hành đạo, đức Phật luôn chỉ dạy chúng sinh
phải giữ tâm mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì
vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, là cội nguồn của
tham, sân, si. Chính nó là đại lộ kinh hoàng đưa chúng ta vào đường ác nghiệp
và mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi. Cái gốc của vọng tưởng điên đảo là
do sáu căn tiếp xúc với sáu trần, sanh ra sáu thức. Tất cả những chủng tử
nghiệp cộng với biết bao nhân duyên đều được xuất phát từ đây”.
Vậy sáu căn là gi?
“Lục căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nảy
nở, tạo thành, bao gồm:
1. Nhãn là mắt, dùng để nhìn.
2. Nhĩ là tai, dùng để nghe.
3. Tỷ là mũi, dùng để ngửi.
4. Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.
5. Thân là thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như
nóng, lạnh...
6. Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.”
Sáu căn là như vậy còn “Sáu căn trần” trong câu thơ là gì?
“Xung quanh chúng ta
có biết bao hiện tượng, vật thể biến đổi không ngừng, chi phối từ tư tưởng đến
hành động chúng ta từng giây từng phút, được gọi là “trần”. Như thế, trần có
nghĩa là bụi, luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất,
hay những cảnh vật xung quanh con người. Có 6 trần (lục trần):
1. Sắc là màu sắc, hình dáng.
2. Thanh là âm thanh phát ra.
3. Hương là mùi hương.
4. Vị là chất vị do lưỡi nếm được.
5. Xúc là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.
6. Pháp là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ
5 trần ở trên.
Bây giờ sáu thức là gì?
“Khi Lục căn tiếp xúc
với Lục trần, có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm
nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm,
thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức
của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và
phán đoánnày được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường
được gọi là Lục thức. Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức,
Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.”
Hiểu được căn, trần và thức thì ta hiểu được ý nghĩa thơ của
tác giả trong bữa trai ngọ hay là một bữa ăn chánh niệm. Trong bữa ăn chánh
niệm đó, người tu sĩ phải quán rõ sự vô ngã vô thường, sự huyễn mộng của kiếp
sống, phải tách lìa sáu căn, quẳng đi sự mơ màng của sáu thức để cho tâm thần
trở nên an lạc.
Trong phần thơ còn lại, tác giả thỏa lòng với những bữa ăn
trong cuộc đời tu hành của mình, nhà thơ nguyện với lòng sống vì đạo pháp để
giãi cướu chúng sinh, đưa họ lên thuyền Bát nhã để về cõi Phật nơi tây phương
tịnh độ:
Cơm một
bát đủ ấm lòng ba buổi
Kinh vẹn thì lục khắc với năm
canh
Nguyện một lòng soi rọi giúp
quần sanh
Thuyền Bát nhã đáp vương thành
tịnh thổ
Trưa hè nắng nhưng mồ hôi chẳng
đổ
Bát cơm lành trưa đúng ngọ cùng
dâng…
“Thuyền Bát Nhã là chiếc thuyền Trí huệ do pháp nhiệm của
Phật tạo nên để rước các chơn hồn đắc đạo lên cõi cực lạc.
Thuyền Bát Nhã là từ ngữ để nói ví dụ so sánh. Con người
sống trong cõi trần đầy ô trược nên bị tấm màn vô minh che lấp, để cho lục dục
thất tình cám dỗ khiến sai. Chừng nào phá bỏ được tấm màn vô minh ấy thì vượt
lên khỏi sự cám dỗ của lục dục thất tình, trở lại làm chủ chúng nó, lúc đó con
người hết vô minh, tức nhiên đạt được Trí huệ, và cái Trí huệ ấy ví như chiếc
Thuyền Bát Nhã, đưa con người đến cõi Cực Lạc Niết Bàn, đắc đạo thành Tiên
Phật.”
Người viết bài này, vì cảm động trước bài thơ nhẹ nhàng mà
uyên thâm, thanh bai mà sâu nhiệm, lại nhớ đến bữa ăn mà mình từng được thụ
lảnh, nên tra cứu sách vở để hiểu thêm bài thơ mà viết cảm nhận của mình, hầu
cho những ai có đồng tâm tình thì thưởng thức nó. Những gì người viết tra cứu
được để viết, đều đóng trong ngoặc kép. Kính mong qúy vị lượng thứ trước những
điều sai trật.
Châu Thạch
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét