Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày
312 trang, khổ 13x19 cm, giá 100.000 đ. Mời quý bạn đọc ủng hộ!
Trong kho tàng văn học dân gian Nam Bộ nói riêng, Truyện Bác Ba Phi đã trở thành một hiện tượng văn hóa độc lạ. những câu chuyện kể về Bác Ba Phi đã được lưu truyền rộng rãi trên khắp những nẻo đường quê hương vùng Nam Bộ.
Bên cạnh hiện thực cuộc sống sinh động về vùng đất Nam Bộ, chúng ta tìm thấy ở Truyện Bác Ba Phi những nét dân gian đặc thù miền Nam với nụ cười thật đẹp đẽ và cũng thật phong phú.
* Cái cười hóm hỉnh
Đất Nam Bộ ngày xưa vốn nổi tiếng hoang vu và trù phú. Nhưng hoang vu và trù phú nhất có lẽ vẫn là vùng đất U Minh và Đồng Tháp Mười.
Người U Minh là những lưu dân, luôn phải chống chọi với đầm hoang thú dữ để sinh tồn khi đặt chân đến đây, gạc bỏ tất cả những định kiến và bó buộc lỗi thời. Là dân tữ xứ đến vùng đất mới, họ phải sát cánh bên nhau. Vì lẽ đó, giữa họ ít có cơ sở để phát triển những tiếng cười phê phán, châm biếm. Mặc dù vậy, nhu cầu về tiếng cười là cần thiết trong đời sống con người.
Tiếng cười xuất hiện trong hầu hết các câu chuyện Bác Ba Phi. Mùa nước dâng, lúa thóc tưởng chừng sẽ “đi theo bà thủy hết”, ai nấy đều “chờ hạ cơn nước chum mà đi bắt cá, đặt lươn ăn qua ngày”, “nẫu ruột” là vậy mà rồi cũng trở thành đề tài để Bác Ba Phi bịa chuyện nói đùa: “Lúa đang nở ngầm dưới đáy nước. Lúa đang chuyển mình nở nghe rào rào. Những con chàng bè mò cá ăn, lớ quớ thế nào mà đút đầu vào giữa gốc bụi luá, lúa nở rồi, mắc kẹt đầu rồi cứ chổng cẳng mà chòi. Khoái quá, tui chống xuồng đi “nhổ” chàng bè. Làm một lát, tui trói bỏ đầy một xuồng be tám. Chống xuồng rút về xóm, tui cho bà con hay, biểu ruộng ai thì ra bắt chàng bè về ăn, rồi cắt tranh mò mẫm bó từng bụi lúa lại, kẻo nở quá, tới mùa nó lốp hết” (Lúa nở ngầm). Vậy đó, đất rừng phương Nam vô cùng trù phú. Nếp thì dẻo đến cái bánh ít bị rẫy dính vào cây xiên nhà, chó nhảy lên táp cũng bị treo tòn ten tỏn tẻn trên đó (Nếp dẻo). Chim chóc thì sống lẫn lộn với gia súc: “Riết rồi cúm núm ngoài đồng, con trống nào chân cũng có mọc cựa, còn gà trống trong nhà thì hay cất tiếng gáy vang: “Ò ó o… Cúm! Ò ó o… Cúm! Cúm …” (Ven rừng U Minh thuở trước). Chuột thì “đứng sắp hàng, nhỏ đứng trước, lớn đứng sau đều bân mặt đất. Chuột nhỏ thì đưa hai tay lên, chuột lớn thì một tay chắp sau đít một tay đưa ra hứng lúa. Có mấy con chuột già không hứng được lúa để ăn, ngồi vuốt râu, mặt mày buồn thiu.” (Chim và chuột U Minh). Cá trê thì đầy lung, đến cả con nai chà chỉ trong thoáng chốc đã bị chúng bu theo “rỉa sạch trọi thịt thà, xương xóc”, “làm cho con nai cứ trồi lui, trồi tới” như đang còn lội, “kéo nai lên thì được cả tạ cá trê, con nào con nấy to bằng cườm tay người lớn” (Cá trê Lung Tràm). Cá lóc thì to đến “táp trụm lủm chiếc xuồng sáp chở đầy mật ong” rồi “nhai nhai một cách ngon lành” (Cá lóc Lung Tràm). Vườn cũng đầy trái, đến chỉ để rụng cho cá ăn, nên cá bổi thịt chát ngấm, cá rô nấu chua “khỏi phải dầm me, dạo cơm mẻ”, cá lóc nấu cháo “khỏi phải vắt nước cốt dừa” (Cá nuôi). Rồi tôm, ếch, rùa, rắn, trăn, ong, nai, heo rừng, khỉ, nai, voi, cọp, cá sấu, kỳ đà… của đất rừng U Minh đều trở thành đối tượng gây cười một cách hóm hỉnh.
* cái cười yêu đời
Đất rừng phương Nam đặt ra cho những người di cư đến đây biết bao thách đố: thú dữ, thiên tai, bệnh tật… Những nhọc nhằn của cuộc khai phá vùng đất mới. Thế là thực tế cuộc sống không cho phép họ bi quan. Tinh thần lạc quan của người dân Nam Bộ trong buổi đầu khai phá thiên nhiên hiện lên khá rõ nét qua tiếng cười yêu đời của Truyện Bác Ba Phi.
Một hiện thực hoang vu đầy khó khăn gian khổ bày ra trước người nghe. “Năm đó mới đến mùa phát đất mà nước đã chum lên đầy ói đồng. Chuột bọ, rắn rít hết chỗ ở, leo lên đọt cây nằm có đùm”, đến nỗi… Bác Ba Phi cả đêm “ngồi mài mảng, hút thuốc trên lưng một con cá kình đước”, nó bò mang Bác vào tận nhà mà Bác cũng chẳng hay! (Mô đất biết đi). Phương tiện giao thông chủ yếu dựa vào sông nước, mà “Thuở ấy, hai bên bờ sông Đốc là rừng lá trập trùng, lá dừa nước ken nhau chạy một mạch tới mé sông rồi như giựt mình dừng lại đứng chới với, hai bên ngọn chờm ra như muốn câu lấy nhau”, khi “lỡ con nước”, người dân phải về trong con nước ròng đêm thì càng hết sức hiểm nguy: “Trời tối đen như mực, tui cứ dòm lằn sáng trên trời mà lái theo. Tức thì tai tui nghe cái vèo, thân thể nhẹ bổng, ghe lũi tuốt lên mé bờ!”. Hiện thực đó đã tạo nên cái nền cho Bác Ba Phi bịa chuyện: “sợi dây kẽm chằng cột đáy gạt văng cái đầu” và rồi vì ban đêm lụp chụp, không sẵn bay, dượng Tư dùng xi măng tháp lại cái đầu của Bác không kỹ nên “đến bây giờ da cổ mới sần sượng vậy đó đa!” (Căn bệnh da cổ của tôi). Những đêm mưa bão “Vợ chồng con cái ngủ trên túp chòi có sàn gác, bị giông đẩy đưa”, bên dưới thì đầy dẫy “thú rừng bị ướt ổ, lạnh, đâm ra quạu, cắn lộn với nhau kêu ầm lên”, hiểm nghèo là vậy mà Bác Ba Phi vẫn cứ cợt đùa “tựa như ngồi thuyền nan trên biển” và thêu dệt chuyện (Con trăn rồng).
Không chỉ có lạc quan trong ứng phó với thiên nhiên khắc nghiệt, Truyện Bác Ba Phi còn có sự yêu đời trong quá trình giữ đất. Bọn giặc ngoại xâm đến U Minh đều trở thành đối tượng của tiếng cười. Tinh thần bảo vệ quê hương ở đây được thể hiện khá kín đáo thông qua những mẩu truyện tiếu lâm. “Cò Tây cấm ngặt không cho chở dưa hấu bằng xe” mà vẫn bị họ qua mặt dễ dàng đến ngớ ngẩn: “Thưa ông cò, đó là đầu hành khách, đó ông xem kỹ lại đi! Vì đường gồ ghề quá, xe chạy xóc quá làm đầu hành khách thối lủng mui xe, trổ lên phía trên, rồi mắc kẹt ở đó” (Phá luật giao thông). Bịa vậy thì ai tin được, trừ Tây!
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đất rừng U Minh là một trọng điểm chà xát của Mỹ-ngụy. Vậy mà người dân ở đây vẫn vui vẻ bám trụ, tăng gia sản xuất nuôi quân. Bị thằng cảnh sát Xọn bắt vì “tội ba năm không đóng thuế đất, và không chịu làm khế ước cho nó”, Bác bèn nghĩ kế. Vậy mà cả quận trưởng Rạch Sáng cũng bị lừa (Nói dóc có sách). Nghĩa là, Bác Ba Phi đâu có ngán bọn tay sai cầm quyền, đem cả chúng ra để mà chế giễu.
Qua những truyện cười của Bác Ba Phi, ta thấy sự thông minh của con người Nam Bộ. Bên cạnh đó, ta cũng thấy rõ ở họ sự coi thường cái gọi là sức mạnh xâm lược của kẻ thù. Với Bác Ba Phi đều hóa thành những món đồ vô dụng. “Người ta không thèm bắt xe lội nước rồi mà cứ ủi vào chưn hoài”, “Tui nổi xung, tống cho nó một đạp thật mạnh, con rùa (xe lội nước) văng bổng lên khỏi đọt nga, rớt trái giữa lung Bùn một cái rầm!” (Rùa U Minh). “Cái đầu chiếc máy bay cán gáo bê qua, cái đuôi vừa quật lại, đang lúc sôi máu giận, tui vớt lái thêm một phảng nữa. Nghe “bụp” một tiếng, tức thì chiếc cán gáo rụng mất khúc đuôi, thét lên hù hụ, xịt khói đen ra đít. Nó tròng trành, tròng trành, rồi cắm đầu xuống Lung Tràm” (Chém trực thăng). “Chưa kịp chui ra, tui liền bị chúng nhấc cò cái bụp. Toàn thân tui bị bắn ra, cọ vào nòng súng kêu nghe cái “có … ét”. Thật bọn Mỹ ở hạm đội nổi tại sông Ông Đốc chơi ác quá, chúng lấy tui làm giẻ lau nòng súng cho chúng” (Thụt nòng ô buýt)
Thật vậy, Truyện Bác Ba Phi là một biểu hiện rất sống động cho cái cười yêu đời của người dân Nam Bộ trong quá trình khai phá thiên nhiên và giữ gìn thành quả của mình.
* Cái cười khoác lác có thẩm mỹ
Truyện Bác Ba Phi đã sử dụng biện pháp nói quá một cách triệt để và có những sắc thái độc đáo.
Đầu tiên, ta nhận ra cái nói quá thường xuất phát từ những sự việc, hiện tượng vốn đã tồn tại trong thực tế. Sự nói quá về Lúa nở ngầm chính là hiện tượng lúa nổi ở đồng bằng Nam Bộ hay sự nói quá về Nếp dẻo chính là loại nếp Cò Hương nổi tiếng của đất rừng U Minh. Cái phóng đại của Truyện Bác Ba Phi tồn tại và lưu truyền rộng rãi khắp vùng Nam Bộ như một nét văn hóa đặc biệt chứ không phải như một sự gây cười dễ dãi.
Bên cạnh, ta còn thấy một hình thức nói quá tăng cấp. Như trong truyện Cá lóc Lung Tràm: “Đang lúc “nhả khói phung mây” phì phèo, tôi bỗng nghe ở gần đâu đây có ổ ong mật đang sổ nực. Trời ơi! Ổ ong lang đóng ngay dưới bắp chân đây chớ hổng đâu xa. Tấm tàn ong lớn bằng cái nia vậy. Còn lại khúc mức, nó rớt xuống tấm vải mủ đụi đụi. Từng khối mật vàng óng bằng trái dừa khô nằm chất đống trên tấm vải mủ. Tui chặt cây khoanh thêm mấy tấm nữa làm bồn chứa. Tui nắn sáp thành một chiếc xuồng lớn chở độ vài chục thùng mật. Chiếc xuồng nặng quá con trâu phải bườn è ạch mà vẫn trèo lên bờ không nổi. Một con cá lóc rừng lên táp trụm lủm chiếc xuồng sáp chở đầy mật ong của tui rồi còn gì đâu!”. Thế mới thấy, ở Truyện Bác Ba Phi, sự phóng đại dường như đã được đưa lên tới mức tột cùng.
Đáng lưu tâm trong Truyện Bác Ba Phi là hình thức mở rộng. Ngụ ý của dạng mở rộng này nhằm giúp cho câu chuyện có tính chân thật hơn. Truyện Bác Ba Phi mở rộng ở phần kết thúc câu chuyện với một kiểu rất độc đáo: “Hổng tin hỏi bả mà coi!” (Gài bẫy bắt chim), “Hổng tin, bà con cứ hỏi “bà xã” tui thử coi!” (Bắt chim trời ăn lúa), “Đứa nào hổng tin vô sau bếp coi bác gái bây đang dở mắm ra thì biết liền” (Ong mật rừng Tràm), “Không tin đi hỏi bả coi có phải thiệt vậy hông?” (Bắt heo rừng) hay “Hổng tin cứ làm thử thì biết!” (Căn bệnh da cổ của tôi). Lối kết thúc này có lẽ cũng chỉ thấy trong Truyện Bác Ba Phi.
Trong Truyện Bác Ba Phi, yếu tố giọng điệu thuần khẩu ngữ Nam Bộ đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Nó thể hiện rõ nét qua cách sử dụng các từ xưng hô, tiểu từ, từ địa phương, các quán ngữ, thành ngữ, cách ví von, miêu tả.
Chẳng hạn trong truyện Tôm U Minh: “Cái năm đó nắng gì đến lung, bàu khô sạch trọi, không còn một miếng nước thấm tay. Hạn đến chó nằm hàng ba nhìn trời lè lưỡi, gà ấp trên ổ hót cổ thở hết ra hơi, trâu thèm nước đổ bọt mồ hôi. Nhà tui chỉ có mấy cái đìa cá giống với một búng đập thông ra Kinh Ngang là còn chứa nước chút đỉnh.”
Và trong truyện Tờ giấy khen: “Tờ giấy khen của huyện cấp cho tui về thành tích đóng góp võ khí cho bộ đội công binh đánh tàu đó, chớ phải chơi đâu? Số là đây tính theo đường chim bay thẳng ra cụm pháo Rạch Ráng đâu độ bảy, tám cây số gì đó. Thường đêm, cụm pháo nó thụt lu ầm như giã gạo chày ba. Đạn pháo bay vô vùng mình bầy bầy chẳng khác le le về ăn đám mạ. Người ở trong tầm pháo riết rồi cũng đâm chai lì. Nghe bầy pháo nào hú hí thì thây kệ cha nó ; chỉ để ý đến bầy nào đi kêu khè khè, khẹt khẹt như tiếng vịt trống xiêm cồ gù thì mới sửa soạn chum vô hầm”.
Với hai câu chuyện được dẫn chững ở trên, các chỗ in nghiêng là những từ ngữ được dùng trong khẩu ngữ miền Nam. Nếu ta thay thế chúng bằng những từ ngữ trong vốn từ toàn dân thì giọng điệu thuần khẩu ngữ Nam Bộ cũng mất đi và Truyện Bác Ba Phi sẽ không gây được hiệu quả thẩm mỹ cao.
Truyện Bác Ba Phi là một món quà tinh thần vô giá của dân gian Nam Bộ. Những truyện kể này đã phản ánh một cách khá sinh động về vùng đất và con người phương Nam trong buổi đầu khai hoang mở cõi. Với những sắc thái độc lạ của tiếng cười ở Truyện Bác Ba Phi đã đưa tác phẩm dân gian vượt ra khỏi lãnh địa U Minh, lưu truyền sâu rộng cả vùng Nam Bộ.
Trần Thanh Xem
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét