- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Tôi thường thích vi vu xe trên những nẻo đường quê, mong mỏi được cảm nhận nhiều thêm tình đất tình người miệt vườn hồn hậu. Trên những cung đường lang bạt, rất nhiều lần tôi bị cuốn hút bởi những ngôi đình miễu ven đường, như bắt gặp một ngọn đuốc nhỏ sưởi ấm tinh thần cho lữ khách trên hành trình gió bụi. Đó cũng là những biểu tượng cao cả của một thứ tình cảm đặc biệt mà con người dành để trao gửi cho con người. Trong một lần như thế, giữa đồng Láng Linh (Châu Phú - An Giang), chúng tôi bắt gặp ngôi miếu nhỏ cũ kỹ ven đường, ghi ba chữ “dinh Trăm Quan”.
Nói đến dinh, người ta nghĩ ngay đến những dinh thự nguy nga lộng lẫy. Ấy vậy mà nơi chúng tôi ghé vào chỉ là ngôi miếu nhỏ bé, diện tích chưa đầy năm mét vuông, nằm thoi loi giữa một khu đất trống. Thật ra ở miền Tây, dinh còn mang ý nghĩa là nơi thờ tự: dinh thờ, dinh miếu. Có thể nó xuất phát từ chữ “doanh” trong doanh trại, người Nam Kỳ xưa không đọc là “doanh” mà đọc là “dinh”. Sau khi một nơi không còn là doanh trại, người dân lập miễu thờ quan quân tướng sĩ và vẫn gọi là dinh. Cù lao Giêng (Chợ Mới - An Giang) tên chữ là Doanh Châu, dân gian đọc là Dinh Châu tức cù lao Dinh, dần dần nói trại thành cù lao Giêng.
Còn hai chữ Trăm Quan cũng là đối tượng tín ngưỡng quen thuộc ở miền Tây, nói đủ là Trăm Quan Cựu Thần hoặc Chư Vị Trăm Quan. Đây là danh xưng dùng để chỉ chung các vị quan quân tướng sĩ triều Nguyễn (cựu trào, cựu thần) từng có công với nước nên được dân chúng tôn thờ, với con số trăm mang tính ước lệ, biểu trưng cho số đông.
Bước vào khoảng sân rộng, tiếp chúng tôi là một ông cụ khoảng bảy mươi tuổi, lại đang làm một việc dường như hiếm thấy ở tuổi nầy, đó là… chẻ củi. Ông ngừng tay, đứng dậy hỏi khách đến có việc gì, chúng tôi chỉ trả lời đơn giản rằng muốn vào cúng. Vậy là ông từ tốn bảo chúng tôi đợi một chút, rồi lẳng lặng bước vào trong. Đến khi trở ra, ông khiến chúng tôi không khỏi bất ngờ vì đã khoác lên người chiếc áo dài chỉnh tề. Tôi không khỏi nghĩ suy, trong khi biết bao đình cao miếu đẹp ngoài kia lại buôn thần bán thánh, thì ngôi miếu nhỏ ở miệt vườn hẻo lánh lại đón tiếp những người khách lạ tình cờ ghé qua chốc lát bằng thái độ trang trọng thế.
Bước vào dinh, quan sát cách thiết trí bên trong, dù diện tích rất nhỏ và nội thất đơn sơ nhưng đủ thấy sự thành kính mà ấm cúng. Mặt tiền có hai cửa hai bên, ở giữa là vách. Bên trong ở nơi tôn nghiêm nhứt giữa dinh là bàn thờ Tam bảo và Cửu Huyền Thất Tổ. Đối diện ở phía vách trước là bàn thờ Trăm Quan, có đặt chân dung Lê Văn Duyệt và Nguyễn Trung Trực như hai vị “đại diện” cho chư vị cựu thần. Mỗi bàn thờ có chút ít hoa và trái cây, kiểu cây nhà lá vườn có gì cúng nấy, tất cả từ tấm lòng thơm thảo của người địa phương.
Ông cụ trịnh trọng đốt nhang đưa khách, trịnh trọng gõ từng tiếng vào chiếc chuông gia trì nho nhỏ trên bàn thờ. Chúng tôi cảm nhận một không khí vô cùng trang nghiêm, như không hề có con đường ồn ào ngoài kia, không có tiếng gầm rú của xe cộ, không có tiếng xì xào bán buôn… chỉ có chúng tôi ngồi đây với thế giới nội tâm rỗng lặng. Và ông cụ đứng bên đúng kiểu cách một ông già Nam Bộ với búi tóc sau ót, râu lơ thơ dài xuống cổ, mặc chiếc áo dài truyền thống… trong không gian huyền diệu ấy tôi cảm nhận ông hiện lên như ông Bụt trong cổ tích thời thơ bé, gần gũi xiết bao.
Tiếp chuyện với chúng tôi, ông tự giới thiệu là ông Mười. Chúng tôi không hỏi tên ông, mà có lẽ cũng không cần phải làm điều đó. Bởi những ông già Nam Bộ là vậy, họ lặng lẽ sống và âm thầm cống hiến cho đất nầy như người vô danh, vô danh như hàng ngàn binh sĩ Gia Nghị đã ngã xuống vì đất nầy, cái tên có đáng là chi.
Ông Mười kể, dinh Trăm Quan nầy vốn là một đồn binh nhỏ của nghĩa binh Gia Nghị trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873) do Quản cơ Trần Văn Thành lãnh đạo. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa, quân Pháp cho thiêu rụi khu rừng Bảy Thưa không còn lại dấu tích chi. Lâu sau, khi tình hình lắng dịu, nhiều người địa phương còn nhớ địa điểm cũ đã lén lút dựng lên miễu nhỏ bằng tre lá để thờ binh sĩ trận vong.
Vị trí ngôi miễu ban đầu nằm sâu trong đồng Láng Linh không thuận tiện cho nhân dân đến cúng bái, vì đó là vùng đất trũng thấp, ngập nước và sìn lầy gần như quanh năm, không có đường xá. Thấy sự bất tiện đó, khoảng thâp niên 1950 các vị cao niên đến Bửu Hương tự (nơi thờ Quản cơ Trần Văn Thành ở xã Thạnh Mỹ Tây - Châu Phú) để xin keo cho dời ra vị trí hiện nay.
Thấy dinh đã xuống cấp sau hơn nửa thế kỷ, chúng tôi hỏi về nguồn tài chánh cho việc trùng tu dinh, ông Mười trầm ngâm. Ông tâm sự, dinh có một miếng đất công, cho người địa phương thuê làm lúa và lấy huê lợi, bên cạnh đó là tiền hỷ cúng của bá tánh thập phương. Song, cả hai nguồn ấy đều không đáng là bao, nên các cụ phải dành dụm từng đồng tiền ít ỏi. Bà con địa phương có dự định trùng tu, đã có người thiết kế bản vẽ giúp và các cụ đang giữ trong tay. Nhưng họ vẫn chưa đủ tiền để khởi công và vẫn đang chắt chiu từng ngày.
Láng Linh xưa nay được xem là chốn kham khổ vì thường ngập lụt, người dân không coi trọng nhà cửa cao sang, nhưng lại sẵn sàng dành dụm vì ước nguyện chung của cộng đồng, vì ngôi miếu ven đường, vì lòng tôn kính những nghĩa binh ngã xuống… Nghĩ về ngôi miếu đơn sơ, những tâm sự của ông Mười, từng đồng tiền lẻ mà người địa phương chắt chiu đóng góp, tôi bỗng liên tưởng tới biết bao tượng đài nghìn tỷ và tự hỏi: tượng đài làm bằng chất liệu gì bền vững bằng “tượng đài lòng dân”?
Nhìn cây nhang vừa cắm vẫn còn khói bay phảng phất trên bệ thờ, lòng tôi bỗng rưng rưng nhiều cảm xúc khó tả. Một lần đọc sách của nhà văn Sơn Nam, thấy ông viết: “Có lòng thành thì thấy như thần hiện ra. Lòng thành là gì? Theo Khổng học, lòng thành là lòng vị tha. Trong phút giây, nếu lòng dạ trong sáng chẳng nghĩ đến việc ám hại người khác, chỉ nghĩ đến quyền lợi chung của thôn xóm thì thần hiện ra trong tâm trí mình, nhắc nhở đạo làm người”. Lại tự hỏi, thời đại thật giả nhập nhằng bây giờ, còn được bao người đứng trước thần linh mà “chỉ nghĩ đến quyền lợi chung của thôn xóm”?
Không phải là chùa, không phải là đình, lại có thờ có thờ cả Tam bảo lẫn Cửu huyền, nhưng chung quy thì dinh vẫn là nơi thờ tự những người yêu nước. Gọi tên chính xác thì đó là tín ngưỡng gì, tôn giáo gì, đạo gì đây? Dường như đó là thứ niềm tin vượt ra ngoài khuôn khổ của tôn giáo, niềm tin mang tính chất tổng hợp và hài hòa được thể hiện một cách hết sức tinh tế, nhân văn.
Đơn giản thôi mà, đạo làm người.
Vĩnh Thông
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét