- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
khi nước chảy trên đất này
người ta gọi là sông
khi đất nằm nghiêng
người ta gọi là đồi
khi đất đứng lên nhìn cho rõ đất
người ta gọi là núi
khi khế chua và ổi chát
vị đầu tiên đời sống tặng em
mẹ nặn sữa bằng ngón tay đen đúa
tay tôi đầy gai vì níu những đàn trâu
môi nứt nẻ vì ớt cay và gió bấc
em ở đâu?
hạnh phúc rất xa vời...
chúng đều là đất cả thôi
xin đừng nặn ta thành những tượng thần
xin đừng nặn ta thành những non cao
hãy nặn ta thành những ông táo nhỏ
cho nồi cơm em bé nghèo hèn
cho người lớn khát tự do
trẻ con khát sữa...
chúng ta đều là đất cả thôi!
những hạt lúa củ khoai đều nhờ vào đất
cái gì gửi vào ta
sẽ lãi gấp mười
sẽ lãi gấp trăm
sẽ lãi gấp ngàn...
vì tất cả hạnh phúc khổ đau nầy đều từ đất mà ra.
Đà Nẵng 1980
Thu Bồn
“Xin nhặt lấy những từ đơn giản nhất / Trong mênh mông hỗn độn những ngôn từ / Sự đơn - giản - trong - veo sẽ làm nên trật tự / Cái trật - tự - dịu - dàng - thăm - thẳm của thi ca”(Trật tự ). Tôi muốn mượn đôi dòng “lý luận có vần” này, trong tập Thơ gửi cho thơ của Trần Ninh Hồ để nói về một bài thơ chỉ bắt đầu bằng một từ đơn giản nhất của nhà thơ Thu Bồn. Đó là bài Đất. Vâng, Đất! Trần trụi và đơn giản. Thế nhưng đấy là sự trần trụi của những triết lý sống, là “sự đơn - giản - trong - veo” của những xúc cảm thẩm mỹ.
Là đất mà thành sông, thành đồi, thành núi, thành những thánh nhân, thành những tượng thần và thành bao điều khác nữa. Nhà thơ Thu Bồn đã bắt đầu những ý tưởng nghệ thuật của mình bằng những khái niệm có tính quy ước như thế:
khi nước chảy trên đất này
người ta gọi là sông
khi đất nằm nghiêng
người ta gọi là đồi
khi đất đứng lên nhìn cho rõ đất
người ta gọi là núi.
Cũng chỉ là đất cả thôi! Một sự thật hiển nhiên không có gì lạ. Thế nhưng tư duy thơ lại rất lạ. Lạ ở lối dẫn dắt, lạ trong cách đặt vấn đề và lạ trong cách thể hiện. Bằng cách nói hình tượng, nhà thơ Thu Bồn đã giúp ta cảm nhận được những dạng thức khác nhau của đất: “khi nước chảy trên đất”, “khi đất nằm nghiêng”, “khi đất đứng lên nhìn cho rõ đất”,... Sự đơn giản trong veo nầy đã làm nên một trật tự. Trật tự của sự sống. Sự sống khởi nguồn từ đất. Và hiển nhiên cái “vị đầu tiên đời sống tặng em” cũng được cộng sinh từ đất.
Một lập luận ngỡ như thiếu chặt chẽ, một cấu tứ lỏng lẻo, tưởng chẳng ăn nhập vào đâu thế mà những dòng thơ lại mang màu sắc triết lý và có “sự dịu - dàng - thăm - thẳm của thi ca”:
mẹ nặn sữa bằng ngón tay đen đúa
tay tôi đầy gai vì níu những đàn trâu
môi nứt nẻ vì ớt cay và gió bấc
em ở đâu?
hạnh phúc rất xa vời...
Sự sống là vậy đấy! Nhọc nhằn cũng lắm và cay đắng cũng nhiều. Thế nhưng từ đất vẫn trổi dậy những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Dẫu biết rằng “hạnh phúc rất xa vời” để suốt cuộc đời ta, ta mê mải kiếm tìm. Và em, “em ở đâu ” trên đất này? Em có nghe những vui buồn của đời sống thường nhật?
Đẩy những xúc cảm nghiêng về phía mẹ với hình ảnh “mẹ nặn sữa bằng ngón tay đen đúa”, nghiêng về chuỗi ngày gian nan, vất vả của đời mình, nhà thơ đã hơn một lần nhận ra chân giá trị của đời sống. Nhà thơ đã không hỏi ta là ai, về đâu trong cái cuộc đời dâu bể? Và không tự huyễn hoặc mình bởi những điều hư ảo. Thu Bồn dường như ý thức được thân phận và trách nhiệm của cái “tôi” đối với con người, đối với cuộc đời. Nhà thơ đã không ngại ngần khi thể hiện cái ước nguyện chân thành của mình:
chúng ta đều là đất cả thôi
xin đừng nặn ta thành những tượng thần
xin đừng nặn ta thành những non cao
hãy nặn ta thành những ông táo nhỏ
cho nồi cơm em bé nghèo hèn
cho người lớn khát tự do
trẻ con khát sữa...
Bằng một cách nói hết sức dân dã, lời thơ gần “điệu nói” nhà thơ đã tạo dựng được những hình tượng thơ có sức khái quát và gợi được nhiều liên tưởng. Không hề ảo tưởng, không phù phiếm, không muốn tôn xưng, nhà thơ chỉ muốn được “nặn thành những ông táo nhỏ”. Bởi nhà thơ đã thuộc về những người cùng khổ. Nơi có những “em bé nghèo hèn” cần cơm, “người lớn khát tự do” và “trẻ con khát sữa”...
Nói như nhà thơ Puskin: “sống để suy nghĩ và đau khổ”, thì quả là nhà thơ Thu Bồn đã dấn thân kiên trì không mệt mỏi với nỗi đau trần thế để cố tạo dựng cái ước vọng cao đẹp đó cho đến cuối cuộc đời.
“Nhặt lấy một từ đơn giản nhất: “đất”, nhà thơ đã làm nên một trật tự thi ca. Một trật tự có chiều sâu của trí tuệ, có sự thăng hoa cất cánh của cảm xúc. Và cái điều nhà thơ tâm niệm cũng sâu sắc biết nhường nào:
chúng ta đều là đất cả thôi!
những hạt lúa củ khoai cũng nhờ vào đất
cái gì gửi vào ta
sẽ lãi gấp mười
sẽ lãi gấp trăm
sẽ lãi gấp ngàn
vì tất cả hạnh phúc khổ đau này đều từ đất mà ra
Vâng, “sẽ lãi”! không riêng gì hạt lúa, củ khoai. Tôi thiết nghĩ, nếu thi ca được thai nghén từ niềm vui, nỗi buồn của con người cũng sẽ lãi gấp trăm, gấp ngàn và nhiều hơn thế nữa!
Nhà thơ Thu Bồn trở về hóa đá phía bên kia, thế nhưng “linh hồn của đá là mây / linh hồn của đất là cây xanh rờn”. Hình như nhà thơ đã từng viết như thế?
Nguyễn Mậu Hùng Kiệt
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Cám ơn BBT đã sử dụng bài trong mục Lý luận phê bình.
Trả lờiXóa