- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
MÂY TRẮNG ĐẦU NON
1.
Khi về trú dưới hiên mưa
Soi đèn bạch lạp đêm vừa
sang canh
Dưới trăng nghe trống trường
thành
Dặm xa ngựa mỏi cũng đành
buông cương.
2.
Khi về hồn gió muôn phương
Kèn vang lỗi nhịp loạn
phường bát âm
Tử sinh vượt cửa phù trầm
Đời sau còn nợ kiếp tằm sầu
riêng.
3.
Khi về khai ấn đền thiêng
Bánh xe lịch sử cuốn nghiền
nát thân
Đi qua gió lốc bụi trần
Áo phơi dấu cỏ ngại ngần
biển dâu.
4.
Khi về trôi giấc chiêm bao
Bướm xưa vườn cũ cỏ nhàu vết
đau
Chiều tàn bóng ngả ca dao
Nhớ ai cởi áo qua cầu nước
xuôi.
5.
Khi về biến dạng mặt người
Soi gương chợt nhớ mấy lời
cổ thi
Gieo câu lục bát lỡ thì
Bước chân sỏi đá khắc ghi
lời nguyền.
6.
Khi về lạc dấu đào nguyên
Đầu non cửa động lụy phiền
thế gian
Non cao suối biếc thông ngàn
Tìm đâu dã hạc bay ngang bụi
lầm.
7.
Khi về gieo hạt từ tâm
Hoa vô ưu nở hương trầm quẩn
quanh
Tóc người thuở ấy còn xanh
Sông dài biển rộng thôi đành
phai hương.
8.
Khi về tóc nhuộm tà dương
Vàng câu kinh tự vô thường
quán không
Sóng xô gò nổi bận lòng
Vô ngôn còn chút bụi hồng
trong mơ.
9.
Khi về khuấy nước ngũ hồ
Mái chèo khua động bãi bờ
trường giang
Từ đây hạc nội mây ngàn
Ngày sau bến nước lụa vàng
ai giăng.
10.
Khi về thắp một nén nhang
Rót trên mộ bạn rượu tràn
lạnh môi
Hắt hiu vài hạt nắng rơi
Chim bên khóm trúc lẻ loi
gọi người.
11.
Khi về nhìn ánh trăng soi
Bước chân vô định buông lời
vô tâm
Áo xưa còn thoảng hương trầm
Ngựa qua quan ải lặng thầm
đêm bon.
12.
Khi về mây trắng đầu non
Tóc xanh lấm tấm gối mòn đã
xiêu
Gót giầy gõ bóng tịch liêu
Trăm năm thơm mãi ít nhiều
cỏ hoa.
28/9/2020
Nguyễn An Bình
“Mây Trắng Đầu Non” là bài thơ mà tác giả Nguyễn An Bình sẽ dùng làm
tựa đề cho cả tập thơ ông sắp xuất bản. Tôi chưa đọc được tập thơ nhưng có hân hạnh đọc được bài thơ nầy.
“Mây Trắng Đầu Non” là một trường thi đài 12 khổ, mỗi khổ 4 câu mang
nổi niềm của người đi ngàn dặm quay về. Bài thơ mang âm hưởng của mọi thời đại,
chứa đọng tâm hồn người nay, hòa nhập
với tâm hồn ngàn xưa, từ đó tiếng thơ chuyển âm như nước chảy, thay đổi như mây trôi, vang vọng như trống trường thành và se buồn như tiếng
thở thời gian, thẩm thấu vào tâm can tôi và làm xao động lòng người.
Mây trắng thường nằm trên
nền trời xanh thắm, tượng trưng cho một cõi bình an. Mây trắng còn tượng trưng
cho chân lý được biểu lộ, từ đó thiền sư Thích Nhất Hạnh viết về cuộc đời Phật Thích Ca với tựa đề “Đường Xưa Mây Trắng”.
“Mây Trắng Đầu
Non” là
hình ảnh những đám mây tựa vào đỉnh núi, cho ta liên nghĩ đến các vị chân tu, các hiền sĩ thoát tục. các
tráng sĩ mõi mệt buông cương, quay về
cõi tịnh, hòa nhập vào vô vi trời đất.
Đọc “Mây Trắng Đầu Non” ở khổ thơ đầu tiên, ta bước ngay vào đêm của một
thời điển tích, nhớ ngay câu thơ của “Chinh
Phụ Ngâm”, nhưng không phải câu thơ “Nửa dêm truyền hịch định ngày xuất chinh” của người xưa, mà là câu thơ
của người ngày nay: “Khi về trú dưới hiên
mưa”:
1.
Khi về trú
dưới hiên mưa
Soi đèn bạch
lạp đêm vừa sang canh
Dưới trăng
nghe trống trường thành
Dặm xa ngựa
mỏi cũng đành buông cương.
Nếu những câu thơ “Trống trường thành lung lay bóng nguyệt/ Khói cam tuyền mờ mịt thức
mây/ Chín tầng gươm báu trao tay/ Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh”
trong Chinh Phụ Ngâm hay những câu thơ “Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã /
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly. / Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.” của Bến My Lăng làm cho tâm hồn ta phấn
chấn bởi sự ra đi của người kỵ sĩ thì bốn câu thơ trên của “Mây Trắng Đầu Non”
đối nghịch, đem đến cho ta một nỗi buồn se lạnh của hiên mưa, của ánh đèn bạch
lạp và của tiếng trống trường thành.
Người kỵ sĩ trong “Mây Trắng Đầu Non” buông cương
quay về vì “Dặm xa ngựa mõi” chớ không phải hăng hái lên đường như hai kỵ sĩ
trong thơ kia . Tuy thế, mười hai câu thơ của ba tác giả mang tâm trạng khác
nhau, hoàn cảnh khác nhau, nhưng tiếng thơ đồng vọng giữa thiên nhiên, soi thấu
vào lòng người cảnh và tình, gây cảm xúc thăng hoa ở tầng số như nhau, đều là
những câu thơ trác tuyệt!
Rồi thì nhà thơ nghĩ đến một sự quay về bi quan hơn,
một sự quay về có tử sinh ẩn hiện trong thơ và có linh hồn nương theo gió để
vượt qua cửa phù trầm:
2.
Khi về hồn gió
muôn phương
Kèn vang lỗi
nhịp loạn phường bát âm
Tử sinh vượt
cửa phù trầm
Đời sau còn nợ
kiếp tằm sầu riêng.
“Phường bát âm” là đội nhạc cổ, thường gồm có tám người, biểu diễn
những nhạc khí khác nhau trong các dịp ma chay, đình đám. “Phù trầm”
là sự chìm nổi. Khổ thơ viết về hồn bay trong gió , bay qua biến động tử sinh, vượt
qua cửa phù trầm, nhìn thấy đám tang của mình, ân hận về những món nợ
đời mà kiếp nầy mình chưa trả được.
Đọc khổ thơ nầy, ta nghe hơi
rờn rợn bởi sự truân chuyên của một linh hồn khuất nẽo thế gian, ở bên kia cõi
thực mà lòng vẫn chưa được bình an.
Bước qua
khổ thơ thứ 3,
khổ thơ nhắc lại sự nghiệt ngả của đời người, sự thăng
trầm của công danh sự nhiệp và sự vô thường của cuộc sống trần gian:
3.
Khi về khai ấn
đền thiêng
Bánh xe lịch
sử cuốn nghiền nát thân
Đi qua gió lốc
bụi trần
Áo phơi dấu cỏ
ngại ngần biển dâu.
Khai ấn
là một nghi thức đầu tiên của một cuộc tế lễ. Người quay về “khai ấn đền thiêng”. Đền thiêng ở đây là đền thiêng nào? Có
thể hiểu đó chính là nơi trú ngụ mới tại chốn cũ của
linh hồn người
quay về. Bởi vì thân thể người quay về
đã bị “Bánh xe lịch sử cuốn nghiền nát
thân”, chỉ còn phần tâm linh sót lại,
phải
“đi qua gió lốc bụi trần” để về. Khi về, thể xác ấy chỉ còn “áo phơi dấu cỏ”, tâm
linh ấy “Ngại ngần biển dâu”, không còn muốn lênh đênh phiêu bạc phương trời. Từ
đó hồn phách quay về quê hương lập một nơi trú ngụ cho linh hồn mình nương náu.
Ở đó. linh hồn đã khai ấn đền thiêng là am, là miếu, là cây cao bóng mát mà
mình trú ngụ.
Khổ thơ
thứ 3 phản phất
sự linh
hiển, âm hưởng của sự trang nghiêm và nỗi đau, và niềm thương vọng
trầm trong tiếng bánh xe lịch sử đời người đi qua gió lốc,
bụi trần. Khổ thơ biến đời người như một cổ xe nặng nề đi qua trủng bóng chết,
như con thuyền buồm xơ xác, mệt nhọc băng qua đại dương.
Khổ thơ thứ tư người quay về
như đi trong mơ, trong mơ vì cảnh xưa không phải là dấu tích của sự huy hoàng “xe ngựa hồn thu thảo/ Lâu đài bóng tịch
dương” mà cảnh xưa là sự tàn phai của một quê hương mang đầy kỷ niêm thân
thương:
4.
Khi về trôi
giấc chiêm bao
Bướm xưa vườn
cũ cỏ nhàu vết đau
Chiều tàn bóng
ngả ca dao
Nhớ ai cởi áo
qua cầu nước xuôi.
Hai câu thơ “Chiều tàn bóng ngã ca dao/Nhớ ai cởi áo qua cầu nước xuôi”
nhà thơ dùng hình ảnh trong ca dao Việt Nam nói về một tình yêu thắm thiết, hy
sinh và thơ mộng: “Thương nhau cởi áo cho
nhau/Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”.
Khổ thơ thứ 5 thổ lộ những
nỗi đau. Nỗi đau thấy hình hài biến dạng, nỗi đau suy niệm điển tích giống
mình, nỗi đau dang dỡ cuộc tình khắc cốt ghi tâm. Tất cả đã từng đẹp như câu
thơ lục bát mà nhà thơ đã từng gieo trong ước vọng, nhưng lục bát đã khựng lại, bài thơ
“lỡ thì” không gieo vần tiếp được, như cuộc đời
mãi bước chân trên sỏi đá:
5.
Khi về biến
dạng mặt người
Soi gương chợt
nhớ mấy lời cổ thi
Gieo câu lục
bát lỡ thì
Bước chân sỏi
đá khắc ghi lời nguyền.
Khổ thơ thứ 6 nhà thơ tưởng
mình như Từ Thức về trần, cảnh vật xa lạ đến trăm năm, muốn quay về cõi tiên
nhưng cửa động đào nguyên lạc dấu, xe hạc đưa mình về cũng đã rời xa đi vào tiên giới:
6.
Khi về lạc dấu
đào nguyên
Đầu non cửa
động lụy phiền thế gian
Non cao suối
biếc thông ngàn
Tìm đâu dã hạc
bay ngang bụi lầm.
Khổ thơ nầy diễn đạt sự bơ vơ lạc lỏng
và tâm trạng nuối tiếc khi về. Như vậy người về không phải là người kỵ sĩ mõi
gối chồn chân, không phải là linh hồn vất vưởng quay lại, mà có thể là một con
người sa cơ thất thế, mất địa vị nơi chốn vàng son, quay lại chốn của một thời
thơ ấu, một thời hàn vi từng sinh sống.
Qua khổ thơ thứ 7 nhẹ nhàng
hơn, người quay về có thể là một tu sĩ với linh hồn thoát tục, tâm trạng không ưu
phiền, nhưng con mắt trần vẫn thấy những thay đổi của luật vô thương diễn ra
trước mắt:
7.
Khi về gieo
hạt từ tâm
Hoa vô ưu nở
hương trầm quẩn quanh
Tóc người thuở
ấy còn xanh
Sông dài biển
rộng thôi đành phai hương.
“Hạt từ tâm” là hạt giống yêu thương luôn có trong tâm hồn mỗi người
để từ bi, tha thứ, kết nối bằng trái tim thân ái với tha nhân. Hạt từ tâm cũng
có thể là hạt bụi hóa kiếp thành thân ta
như Trịnh Công Sơn “Hạt bụi nào hóa kiếp
thân tôi…” hay như Thích Nhất Hạnh “Hạt
bụi len qua thân người, sống cuộc đời trần thế, rồi trở về cát bụi”. Vậy
người quay về phải là người giác ngộ lẽ đạo cao siêu mới “Gieo hạt từ tâm” cho “Hoa vô
ưu nở hương trầm quẩn quanh” được.
Người trở về trong khổ thơ
thứ 8 vẫn như người trở về trong khổ thơ thứ 7, đó là người tuổi đã cao, hiểu
luật vô thường, trải qua sóng gió cuộc
đời và am tường triết lý vô ngôn nhà Phật:
8.
Khi về tóc
nhuộm tà dương
Vàng câu kinh
tự vô thường quán không
Sóng xô gò nổi
bận lòng
Vô ngôn còn
chút bụi hồng trong mơ.
“Vô ngôn” là triết lý nhà Phật, bắt
đầu từ hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm cánh hoa sen đưa lên có ý khai thị, và
Ngài dĩ tâm truyền tâm cho Ca Diếp. Triết lý vô ngôn tức triết lý không lời,
triết lý về sự im lặng, giống như một con thuyền trống không vượt biển dưới ánh
trăng huyền ảo trong bài thơ của thiền sư Huệ Sinh: “Tịch tịch Lăng Giả nguyệt/ Không không độ hải chu”, dịch là “Trăng Lăng Giả vắng lặng/Thuyền vượt biển
trống không”. Trăng vắng lặng thuyền trống không nhưng chứa chấp biết bao
điều cao siêu mà ai vắng lặng tâm hồn sẽ đạt đạo.
Qua khổ thơ thứ 9 người trở
về không phải để định cư trên quê hương. Người trở về thăm quê hương lần chót
để ra đi vĩnh viễn.
9.
Khi về khuấy
nước ngũ hồ
Mái chèo khua
động bãi bờ trường giang
Từ đây hạc nội
mây ngàn
Ngày sau bến
nước lụa vàng ai giăng.
“Ngũ hồ” nầm trong thành ngữ “Năm
hồ bốn biển” có ý nghĩa là khắp nơi. “Hạc nội mây ngàn” có nghĩa biệt tăm biệt tích không biết ở nơi nào. Khổ thơ mang nỗi buồn ra đi không có ngày trở
lại. Người thăm quê hương lần cuối rồi ra đi sẽ lưu lạc bốn phương trời, tung
tích như bèo dạt mây trôi, không biết nữa trên dòng sông quê hương “Ngày sau bến nước lụa vàng ai giăng”?
Nguyên một khổ thơ thứ 10,
tác giả viết, người về chỉ để thắp một nén nhang trên mộ bạn. rót rượu trên
mộ bạn. Vậy chữ bạn ở đây có ý nghĩa rộng, hoặc là người tri kỷ, hoặc là người yêu
năm xưa đã chết:
10.
Khi về thắp
một nén nhang
Rót trên mộ
bạn rượu tràn lạnh môi
Hắt hiu vài
hạt nắng rơi
Chim bên khóm
trúc lẻ loi gọi người.
Qua khổ thơ thứ 11, người về
đã đạt đến một trình độ uyên thâm trong giác ngộ chân lý:
11.
Khi về nhìn
ánh trăng soi
Bước chân vô
định buông lời vô tâm
Áo xưa còn
thoảng hương trầm
Ngựa qua quan
ải lặng thầm đêm bon.
“Khi về nhìn ánh trăng soi” không chỉ là nhìn thứ ánh trăng của đêm
rằm mà câu thơ còn chứa ẩn dụ một thứ ánh trăng khác nữa. Đó là thứ ánh sáng
hào quang dịu vợi của chân lý vô biên tỏa soi
khắp bản thể, làm tan biến sự tối tăm trong tâm hồn người quay về, để từ
đó người quay về có “Bước chân vô định
buông lời vô tâm”.
“Bước chân vô định” không chỉ có nghĩa là bước chân đi không định
hướng mà còn có ý nghĩa ẩn dụ trong thơ. Đó là bước chân đi giữa 8 vạn 4 ngàn
pháp môn để tu thành đạo, tùy theo căn cơ
trí tuệ của chúng sinh mà lựa chọn một chánh pháp thích hợp cho mình.
“Buông lời vô tâm” cũng không có nghĩa là buông lời nói thờ ơ biểu hiện
cảm xúc không yêu không ghét, mà đó là buông lời phù hợp với vô vi trời đất,
trung dung trung tính, như một viên kim cương trong veo, hoàn mỹ,
không tì không vết, chỉ tùy theo ánh sáng chiếu vào mà màu sắc hiện ra. Con
người ai cung có viên ngọc vô tâm hoàn mỹ đó, khi nào quay về được với bản thể Thượng
Đế tạo ra từ thuở ban đầu thì có tâm vắng lặng, và đó chính là vô tâm.
Hai câu thơ “Áo xưa còn thoảng hương trầm/ Ngựa qua quan ải
lặng thầm đêm bon” nhắc ta một quá khứ có linh hồn thanh tao, thơm mùi trầm
xạ của thánh hiền, nhưng đã qua quan ải, lụy vào cõi trần gian trong đêm bon tẩu vượt
cõi thánh thiện, sa chân vào cõi trần gian tăm tối.
Qua khổ
thơ cuối cùng của tường thi “Mây Trắng
Đầu Non”:
12.
Khi về mây
trắng đầu non
Tóc xanh lấm
tấm gối mòn đã xiêu
Gót giầy gõ
bóng tịch liêu
Trăm năm thơm
mãi ít nhiều cỏ hoa.
Khổ thơ
thứ 12, khổ thơ cuối của trường thi diễn đạt một sự quay về viên mãn, sự quay
về như mây trắng một đời trôi nổi, nay dừng lại ở đầu non. Người về tóc xanh đã
điểm bạc, gối mòn đã xiêu, nhưng gót giầy từ nay thiền hành dưới bóng tịch liêu
và linh hồn ngày nay trăm năm thơm mùi cỏ hoa là mùi bình dị thanh cao và tinh
khiết.
Trường
thi “Mây Trắng Đầu Non” là một bài
thơ dài, bài thơ như chiếu 12 cuốn phim, tả những con người quay về với những
thân phận khác nhau. Mỗi khổ thơ ẩn chứa trong đó những điều suy nghiệm sâu xa,
để kết luận chỉ cho người đọc một con đường quay về như mây trắng quay về tụ ở đầu
non,
là con đường tốt đẹp nhất, là con đường thoát khổ đế để về với chân như, hòa
nhập vào vô vi đất trời hay đến với Thiên Đàng vinh hiển.
Mây
trước tiên đi vào thi ca như một vẻ đẹp tự nhiên của đất trời ban tặng ở quanh
ta. Mây tượng trưng cho sự sáng tạo vì nó có thể mang bất cứ một hình thù gì.
Mây trắng còn tượng trưng cho đám mây pháp hiển lộ chân lý giữa đời. Khi Đức
Phật Thích Ca sắp viên tịch, ngài trả lời sự chết của ngài như “Đám mây trắng biến đi”.
Nhà thơ
Nguyễn An Bình sáng tác trường thi “Mây
Trắng Đầu Non” như dựng lên cho đời thấy một bức tranh tuyệt đẹp, dùng bài
thơ làm ngón tay chỉ nơi lý tưởng mà ờ đó, con người không khi về với “Ngựa mõi, buông cương”, không khi về với “Vượt cõi phù trầm”, không khi về với “Cỏ nhàu vết đau”, không khi về với “Lục bát lỡ thì”, không khi về với “Lụy phiền thế gian”..., mà khi ấy, về với “Gieo hạt từ tâm”, mà khi ấy về với “Vô thường quán không”, mà khi ấy về với “Vô định, vô tâm, hương trầm còn trên áo”, để cuối cùng, khi về hóa
thân thành “Mây Trắng Đầu Non”, đi
đến chốn giải thoát, chôn vô ưu, chốn vĩnh hằng ở đâu đó trong mây trắng đầu
non.
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét