- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
1. Cố đô Hoa Lư, non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Nhìn trên bản đồ hình chữ S thì dải
đất Ninh Bình có hình dạng giống như chú rùa đang bơi ngửa mà đầu của nó chính
là vùng đất Kim Sơn. Chú rùa ấy đang vươn cổ xuống nhìn về biển Đông ở phía cửa
Đáy. Và trên lưng rùa đó Cố đô Hoa Lư và thành phố Tam Điệp nằm ở khoảng giữa của
mai rùa. Thân rùa ấy, đặc biệt là vùng đất Hoa Lư là một vùng đất cổ. Vùng đất
cổ đó, trước đây, cách ngày nay khoảng từ 170 triệu đến 300 triệu năm từng nằm ở
tâm điểm của những lần biển thoái, biển tiến trong suốt quá trình vận động tạo
núi khiến cho thềm lục địa được nâng lên làm các dãy núi đá vôi nhô cao lên
trên mặt biển và kết hợp với phù sa bồi đắp của hệ thống sông Hồng đã để lại kết
quả là huyện Hoa Lư nói riêng và cả tỉnh Ninh Bình nói chung đã chuyển từ một vụng
biển trở thành một phần của đồng bằng châu thổ màu mỡ với cảnh sắc non xanh nước
biếc kỳ tú tựa như một Vịnh Hạ Long trên cạn. Chẳng tin thì những dấu tích của
biển hàng trăm triệu năm trước vẫn còn lưu lại sờ sờ ra đấy mà bằng chứng chính
là các chân núi đá vôi từng bị sóng mặn bào mòn, khoét sâu tạo thành các hình
vòm nhẵn thín duyên dáng bên những dòng nước khiến không ít người phải bất ngờ
sửng sốt trước sự kỳ công của tạo hóa.
Chưa hết, những dãy núi đá vôi từ
mặt biển nhô lên ở Hoa Lư ấy gặp phải sự tác động của tiết trời với những nắng
mưa theo mùa mà có sự phân hóa mạnh mẽ để làm thành cả một miền núi đá kỳ thú
mang những đặc trưng của miền nhiệt đới, khác lạ so với những núi đá vôi nơi xứ
lạnh trời Âu. Những núi đá vôi ở Hoa Lư bị thời tiết nóng lạnh thay đổi liên tục
giữa ngày và đêm, nhất là khi mùa hè, trải qua hàng trăm triệu năm khiến đá núi
bị co giãn và nứt nẻ. Không những thế, những trận mưa rào bao đời thi nhau tuôn
nước xuống, tràn qua các vết nứt, bào mòn các khe đá làm thành những hang những
động. Hàng ngàn khối nước mưa cưa trời ấy mang theo trong mình các hợp chất của
a xít và tích tụ trong ruột núi; len lỏi qua các khe các kẽ ngấm ngầm đục phá lòng
núi để tạo thành các dòng sông ngầm với hàng ngàn thạch nhũ muôn hình muôn vẻ hết
sức diệu kỳ. Các dòng sông ngầm cùng những hang động với muôn ngàn thạch nhũ
lúc ẩn lúc hiện; quanh co giữa bóng đêm dày đặc, thăm thẳm của ruột núi mặc sức
cho con người khám phá và thả trí tưởng tượng để gọi tên. Và những dãy núi đá
vôi ấy sừng sững, nối đuôi nhau, bao quanh Hoa Lư làm thành bức tường thành khổng
lồ vừa giống như những pháo đài cổ lại vừa giống như những cột chống trời mà
làm nên hồn thiêng sông núi.
Song hành bên những núi đá trên đất
Hoa Lư là những dòng sông, con suối hay mặt hồ mênh mang nước biếc uốn lượn
quanh co qua các đồng lúa khiến cho cố đô hiện lên trong mắt người qua giống
như một bức bích họa khổng lồ mà tạo hóa đã dày công bày đặt trên đất Ninh
Bình. Những núi cao núi thấp với muôn dáng ngàn vẻ khi thì dựng đứng bên mép
sông, lúc lại chênh chao giữa mặt hồ êm đềm, yên ả; đêm ngày soi bóng xuống mặt
nước lung linh kỳ ảo dễ làm người ta liên tưởng đến những lâu đài tráng lệ chỉ
gặp trong các truyện cổ tích và gợi nên vẻ đẹp muôn vàn của núi hoa sông gấm. Bởi
thế, gặp khi trời đẹp, cảnh trí của non nước cố đô hiện ra như một bữa tiệc thị
giác bày đặt giữa mênh mang đất trời để dâng hiến cho mọi người thưởng ngoạn. Tỉ
như những buổi sáng mùa thu khắp hầu trên các dòng sông uốn lượn dưới các chân núi
là sắc màu tím hồng bạt ngàn của hoa súng vươn lên từ mặt nước trong xanh giữa
bốn bề vách núi tĩnh lặng, trong mênh mông biển vàng của mùa lúa chín hay trong
buổi sớm mai của một ngày mùa đông bên các sườn núi ta thấy chờn vờn giữa hàng
vạn cỏ cây xanh biếc những làn hơi mỏng mảnh bốc lên giống một lớp sương sa mờ
mờ ảo ảo hoặc trong buổi chiều hôm, khi ánh tà dương tỏa trên các đỉnh núi, chiếu
vào các vách đá những tia sáng lung linh, lóng lánh tựa như thiếp vàng. Cứ thế,
mê mải ngắm nhìn phong cảnh non nước cố đô trong ta không khỏi nhớ lại câu thơ
của cụ Nguyễn Du để biết được thế nào là “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây
khói biếc non phơi bóng vàng”. Cảnh và thơ sao giống nhau đến vậy. Quyến rũ đến
nao lòng.
Sông nước Hoa Lư mênh mênh mang mang, dòng trong văn
vắt in bóng mây trời. Núi non cố đô trùng trùng điệp điệp, vách dựng thâm trầm chở
che bốn phương. Sông núi cứ thế mà song hành, quấn quýt duyên dáng bên nhau; nước
non hòa mình xuyên chảy cùng nhau; giang sơn thương yêu nâng đỡ cho nhau mà dệt
thêu thành sơn hà gấm vóc, núi sông kỳ tú. Thế đấy, non xanh nước biếc Hoa Lư
là vậy. Chốn sơn thủy hữu tình tựa chốn bồng lai vào hàng độc nhất vô nhị dưới
trời Nam. Phải chăng non nước ấy là sự ưu ái riêng của tạo hóa. Chẳng thế, mỗi
khi đến với cố đô được bồng bềnh trên chiếc thuyền con, nhẹ khua mái chèo lướt
trên nước biếc; ngắm nhìn mênh mông hoa súng; thả hồn giữa không gian bao la của
chập chùng non nước, trời mây đẹp như tranh vẽ ta không khỏi thích thú, ngất ngây,
mê mẩn. Đắm chìm trong không gian kỳ ảo như thế lòng ta lại không khỏi nhớ đến
những vần thơ hết lời tụng ca non nước ấy của vua Trần Nhân Tông “Tứ biên sơn
nhiễu thủy hồi hoàn/ Sơn thủy như đồ cảnh tự nhiên” (Non nước quanh co bốn mặt
vây/ Thiên nhiên bức họa diệu kỳ thay); của vua Trần Thái Tông “Thủy thức Bồng
Lai nguyên bất viễn/ Thung dung tuế nguyệt độn phàm trần” (Đến đây mới biết cảnh
tiên chốn Bồng Lai đâu có xa/ Ngày tháng thong dong xa lánh cõi phàm trần) hoặc
như câu thơ chất chứa tình ý của Tĩnh Đô Vương – Chúa Trịnh Sâm: “Sất luyện oanh hồi xuyên thủy động/
Trùng tiêu ngập nghiệp trĩ sơn quan” (Dòng nước xuyên qua động trông như tấm lụa trắng
vòng quanh/ Núi cao sát tầng mây như cửa ải bằng đá). Thế mới hay non xanh nước
biếc của cố đô Hoa Lư không chỉ bây giờ mà đã bao đời nay đã được lọt vào mắt
xanh của các đấng quân vương hay chữ để trở thành một nguồn thi hứng dạt dào, bất
tận.
2. Mỹ cảm dân gian về vua Đinh,
vua Lê và Thái hậu Dương Vân Nga
Non xanh nước biếc của Hoa Lư
không chỉ là nguồn thi hứng dồi dào mà còn là một vùng đất của những huyền thoại,
nhất là những truyện kể về các vị anh hùng lỗi lạc của dân tộc. Điều ấy có lẽ
cũng chẳng lạ. Trên dải đất hình chữ S này mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông thường
thì chỗ nào chẳng ít nhiều gắn với những câu chuyện kể về các sự tích chẳng lập
làng, dựng nước thì cũng giữ nước. Cho nên cố đô trên đất Ninh Bình những sơn kỳ
thủy tú đã làm thành nơi địa linh để vừa là nơi sinh nhân kiệt cũng vừa là nơi
tụ hội của những anh tài kiệt xuất. Bởi thế những Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành,
Dương Vân Nga cùng có mặt trên đất Hoa Lư giống như một định mệnh, chẳng thể
nào khác được. Dường như, hùng khí linh thiêng của gấm vóc non sông đã hun đúc
để sinh ra những con người vĩ đại và chính những con người vĩ đại ấy lại làm rạng
rỡ núi sông. Bộ ba nhân vật lịch sử Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành, Dương Vân Nga đã
được ghi tạc vào những trang vàng chói lọi của sử lịch sử dân tộc và còn được
lưu truyền, trường tồn trong tâm thức nhân dân bằng một nỗi niềm mỹ cảm đặc biệt
của dân gian.
Xưa nay công việc ghi chép lịch sử
ở nước ta từng song hành hai cách ghi chép. Đó là cách ghi chép của nhà nước mà
ta vẫn thường gọi là chính sử và cách ghi chép của dân gian mà ta vẫn hay gọi
là dã sử, kiểu như những truyền thuyết hoặc giai thoại. Hình như, do hoàn cảnh
đặc thù với những cuộc chiến diễn ra liên tục trong suốt trường kỳ dựng nước và
giữa nước kèm theo những mưu đồ tàn phá văn hóa phương Nam để đồng hóa dân tộc
ta của người phương Bắc mà các tư liệu chính sử của nước ta còn lại rất ít, thậm
chí có những thời kỳ được ghi chép lại rất mờ nhạt, các nhà viết sử phải dùng
tư liệu của dân gian để biên soạn lại. Bởi vậy cách ghi chép của hai dòng chính
sử và dã sử có khi giống nhau nhưng cũng có khi vênh nhau trước một đối tượng lịch
sử. Điều ấy cũng dễ hiểu. Mỗi cách ghi sử chịu sự chi phối của một tư tưởng nhất
định. Chính sử chịu ảnh hưởng của người cầm quyền còn dã sử thì theo quan điểm
của nhân dân. Bởi thế, theo dòng dã sử ta sẽ nhận ra trên cơ sở “cái lõi của sự
thật lịch sử” sẽ có những phần được “thơ và mộng” theo lý tưởng và tâm tình thiết
tha của nhân gửi gắm vào trong đó. Và cái phần “thơ và mộng” trong dã sử ấy
chính là những nỗi niềm mỹ cảm của nhân dân dành cho các nhân vật lịch sử mà
mình phản ánh; đó là thái độ, tình cảm, cách ghi nhận, đánh giá của nhân dân
dành cho mỗi một nhân vật lịch sử.
Mở đầu cho bản hùng ca của Hoa Lư
là thủ lĩnh cờ lau Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng Đế. Tuổi thơ của nhà vua được
tắm trong những hào quang của huyền thoại. Trước tiên là sự ra đời khác thường
của nhà vua. Dân gian bảo rằng Đinh Bộ Lĩnh Lĩnh là con của rái cá thần. Chẳng
là bà Đàm Thị (mẹ Đinh Bộ Lĩnh) ngủ trên tảng đá, khi tỉnh giấc thấy con rái cá
hình nhân nằm bên cạnh vắt chân qua bụng rồi mang thai. Bà mang thai một cách
khác lạ, mười bốn tháng mới sinh nở. Khi Đinh Bộ Lĩnh vừa sinh ra đã ngồi dậy
được như đứa trẻ lên ba; dung mạo tuấn tú, oai vệ khác thường. Đến năm lên bốn
tuổi Đinh Bộ Lĩnh có biệt tài bơi lặn và biết mò cua, bắt ốc nuôi mẹ, nuôi thân.
Cha mẹ mất sớm, bị mồ côi, ở với chú, Đinh Bộ lĩnh đi chăn trâu và luôn cầm đầu
bọn trẻ chơi trò trận giả, dùng cờ lau đánh trận. Có lần Đinh Bộ Lĩnh cho mổ
trâu của chú để khao quân và cắm đuôi trâu xuống lỗ nẻ để nói dối chú là trâu
chui xuống lỗ nẻ. Đặc biệt, tuổi trẻ của Đinh Bộ Lĩnh còn gắn với câu chuyện
tìm được miệng rồng ở dưới đáy sông Đại Hoàng để đặt xương cha và câu chuyện trả
thù của tên địa lý người Tàu hoặc như câu chuyện kéo lưới ở sông Giao Thủy và
nhặt được viên ngọc đế vương rồi sơ ý để sứt. Tất cả những hào quang huyền thoại
đó chính là thái độ, quan niệm của nhân dân với Đinh Tiên Hoàn Đế. Nhân dân muốn
nhà vua, người anh hùng của mình phải tài giỏi một cách siêu việt, hơn người
bình thường. Bởi vậy, nhân dân đã để cho Đinh Bộ Lĩnh là con của rái cá thần chứ
không phải là con của ông Đinh Công Trứ. Quá trình mang thai, sinh nở của bà
Đàm Thị cũng vô cùng đặc biệt. Thời gian mang thai của bà gấp rưỡi thời gian
mang thai của người bình thường. Và quá trình lớn lên và trưởng thành của Đinh
Bộ Lĩnh cũng khác người. Không những thế sự nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh cũng được
nhân dân giải thích bằng những câu chuyện mang màu sắc phong thủy, ứng nghiệm với
những điềm báo của thần linh. Tất cả những hào quang huyền thoại đó đã phản ánh
rất rõ tình cảm kính trọng, yêu quý của nhân dân với Đinh Bộ Lĩnh, vị vua tài
ba của đất Việt. Và đó cũng chính là cái chất “thơ và mộng” được dân gian lý tưởng
hóa gửi gắm vào trong truyền thuyết về ông.
Sau Đinh Tiên Hoàng Đế, truyền
thuyết Hoa Lư cũng kể khá nhiều về vị vua của vương triều thứ hai trên đất cố
đô. Đó là vua Lê Đại Hành hay tên gọi khác là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Đặc
biệt là mối lương duyên của ông với Thái hậu Dương Vân Nga. Vua Lê Đại Hành
không phải người Hoa Lư, ông là người Thanh Hóa. Nhưng sự nghiệp của ông gắn với
đất Hoa Lư. Ông vốn là một tướng tài của nhà Đinh, từng theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp
loạn mười hai sứ quân thống nhất đất nước và được phong làm Thập đạo tướng quân
(Tổng chỉ huy quân đội). Sau này, khi được truyền ngôi ông còn tiếp tục bình
Chiêm, dẹp Tống khiến cho cả Man Di, Hoa Hạ đều phải sợ hãi và đưa vị thế của Đại
Cồ Việt lên một tầm cao mới. Là một vị vua tài giỏi, có công lao to lớn với đất
nước nhưng dưới mắt các sử gia phong kiến Lê Đại Hành luôn bị chê cười. Mối
tình của ông với Dương Vân Nga không được các sử gia phong kiến đặt trong bối cảnh
thù trong giặc ngoài khiến vận mệnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc để xem xét một
cách khách quan. Bởi vậy Ngô Sỹ Liên mới viết: “Đại Hành thông dâm với vợ vua,
rồi nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu thì không còn có lòng hổ thẹn gì nữa. Lấy lối
ấy truyền lại đời sau, chính con mình lại bắt chước mà gian dâm quá độ, đến nỗi
mất nước, há chẳng phải Đại Hành gây mối họa loạn ư” (Đại Việt sử ký toàn thư) hoặc
“Lê Đại Hành là một ông vua mở ra cơ nghiệp mà làm việc ấy xem như cầm thú, mọi
rợ. Hơn nữa miếu hiệu Đinh Tiên Hoàng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, thế mà Lê Đại
Hạnh lại công nhiên lấy hiệu vua cũ đặt tên cho vợ mình là không biết kiêng nể
quá mức. Chép vào sử sách cho nghìn thu chê cười” (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhưng
trái lại với quan điểm của các nho gia, nhân dân đánh giá Lê Đại Hành và Dương
Vân Nga một cách khách quan hơn để từ đó thấy được tài năng và tầm vóc, công
lao với dân tộc của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Để đồng tình và ủng hộ mối
oan tình ấy truyền thuyết “Sự tích sông Vân Sàng” có đoạn kể: khi đoàn thuyền của
Lê Hoàn đại thắng quân Tống trở về, Lê Hoàn và Dương Thái Hậu bước lên thuyền rồng
thì tất cả nhân dân đứng đấy đồng thanh hô to “Thánh Thượng Vạn Tuế! Hoàng Thượng,
Hoàng hậu vạn tuế, vạn tuế …”. Không những thế, Khi thuyền rồng chở Lê Hoàn và
Dương Vân Nga đi trên sông, giữa lúc trời đang nắng to bỗng có đám mây ngũ sắc
bay theo thuyền nhà vua. Người ta còn trông thấy trong đám mây ấy có đôi rồng
đang quyện vào nhau. Và cho rằng đó là điềm trời linh ứng, che chở cho thiên tử.
Có lẽ nhân dân là người rất đồng cảm, ủng hộ với mối tình éo le của Lê Đại Hành
với Dương Vân Nga; thấy được sự hy sinh vô bờ bến vì đại cuộc của Thái hậu dành
cho xã tắc. Bởi thế, trong dân gian ở đây còn lưu truyền những câu hát ru để
ghi nhận công lao, thấu hiểu và chia sẻ với Thái hậu họ Dương: “Nín đi thôi,
nín đi thôi/ Một vai gánh vác một đôi sơn hà/ Vạc Đinh đã trở về Lê/ Nàng Dương
chăn gối lại về chính cung” hay “Hai vai gồng gánh
hai vua/ Hai triều, Hoàng hậu tu chùa Am tiên/ Theo chồng đánh Tống bình Chiêm/
Có công với nước, vô duyên với đời”... Hoặc như cũng có giai thoại như thể để
chiêu tuyết, minh oan cho Hoàng Thái hậu. Giai thoại kể rằng: Một ngày đẹp trời, Lê Hoàn đến thăm nhà một anh lính họ
Dương để kết tình quân dân và gặp Dương Vân Nga. Đôi trai tài gái đã sớm “tình
trong như đã mặt ngoài còn e”. Trong lúc đó, Ðinh Bộ Lĩnh là hoàng đế ở Hoa
Lư. Ông biết Dương Vân Nga rất đẹp nên để mắt tới và lấy về làm vợ. Sau
khi lấy Dương Vân Nga, Ðinh Bộ Lĩnh mới biết vợ mình chính là người yêu của
Lê Hoàn vì thế không ngừng thử thách lòng trung thành của vị tướng này. Lê Hoàn
cũng không phụ lòng Ðinh Bộ Lĩnh, trước sau vẫn thể hiện sự trung quân. Từ
đó Đinh Bộ Lĩnh tin tưởng trao cho cả mười đạo quân cho Lê Hoàn. Dù tin Lê Hoàn
nhưng Ðinh Bộ Lĩnh cũng không muốn ông ở gần ái hậu của mình cho nên cử Lê Hoàn
ra biên ải. Âu có lẽ, đây cũng là chứng cứ ngoại phạm khi Ðinh Bộ Lĩnh và
Ðinh Liễn bị Ðỗ Thích sát hại. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh chết, vì lo cho đất nước
thù trong giặc ngoài, vì phải bảo vệ con và chính bản thân mình nên Dương Vân
Nga đã mời Lê Hoàn về kinh đô để giúp việc, nhường ngôi và lấy làm chồng. Tất cả
những điều đó cho thấy, mối quan hệ của Dương Vân Nga và Lê Hoàn là một mối
quan hệ rất sâu sắc. Đó không chỉ là mối quan hệ Hoàng hậu và bề tôi. Dù chỉ là một giai thoại nhưng nhân dân đã tỏ ra thấu hiểu
những công lao, suy nghĩ, tính toán, tình cảm của Dương Vân Nga. Có lẽ vì thấu
hiểu như vậy nên bao đời nay người Hoa Lư vẫn thờ Dương Vân Nga chung với Lê
Hoàn, chỉ đến ngày giỗ của Ðinh Tiên Hoàng người ta mới thỉnh Dương Vân
Nga sang đền thờ ông một đêm rồi sáng hôm sau lại đưa bà trở lại đền thờ vua Lê
Đại Hành.
3. Bên dòng Sào Khê, những dấu xưa
của một thời in bóng
Kinh đô xưa nay được
xem là trung tâm phát triển về mọi mặt của mỗi quốc gia, nhất là về các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa. Bởi vậy, dựa vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
tùy theo quan điểm riêng của người đứng đầu đất nước mà mỗi triều đại lại lựa
chọn cho mình một vùng đất để định đô nhằm mục tiêu xây dựng đất nước bền
vững. Trong lịch sử dựng đô của nước ta tính đến hết thế kỷ thứ X và những năm
đầu của thế kỷ thứ XI, ta thường thấy người đứng đầu các triều đại chọn đất
đóng đô bằng các tiêu chí: chọn vùng đất có ảnh hưởng đối với mình hoặc
chọn quê hương mình. Cho nên chúng ta có các kinh đô: Phong Châu của vua
Hùng; Cổ Loa của Thục Phán, Ngô Quyền; Mê Linh của Hai Bà Trưng; Vạn Xuân của
Lý Nam Đế; Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành… Trong số các nơi ấy, cố đô Hoa
Lư từng là một kinh đô rất có ý nghĩa. Đó là kinh đô khép lại một ngàn năm
Bắc thuộc và mở ra một thời kỳ độc lập, phát triển mới cho đất nước.
Hoa Lư là nơi giao thoa của hai không gian văn hóa: sông Hồng và sông Mã;
nơi giao thoa của hai không gian xã hội: Việt và Mường; nơi giao thoa của hai không
gian địa mạo: núi đồi và vùng đồng bằng trước núi. Từ trên cao nhìn xuống Hoa Lư, người ta thấy núi đá bao quanh tứ
phía, chạy hình vòng cung, nhìn chẳng khác gì một bức trường thành thiên nhiên
che chắn. Đất ấy có núi
trong sông, có sông trong núi; các
dãy núi đá dựng đứng, vào ra chỉ có độc đạo; căn cứ thủy bộ thuận tiện; sau lưng là rừng,
trước mặt là đồng bằng, xa hơn nữa là biển. Đây là một địa thế hiểm yếu: “tiến khả dĩ công, thoát khả dĩ
thủ” (tiến có thể đánh,
lui có thể giữ). Bởi thế cả Đinh
Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đều chọn Hoa Lư làm
kinh đô. Kinh đô ấy thực chất là một quân thành. Cứ theo như lời của Tống Cảo
(sứ thần nhà Tống) nhận xét: “Hoa Lư thị Hán Trường An” (Kinh thành Hoa Lư có
thể sánh ngang với kinh đô Trường An của nhà Hán ở phương Bắc) ta sẽ thấy được
đương thời quân thành Hoa Lư khá phát triển và đã đáp ứng được vai trò của một
kinh đô trong điều kiện nhất định của một nhà nước phong kiến còn non trẻ. Trên thực tế kinh đô Hoa Lư đã phát huy tác dụng to lớn ở
thế kỷ X trong việc ngăn chặn các thế lực chống đối muốn tiến đánh kinh thành.
Và cũng từ kinh đô Hoa Lư vua Đinh, vua Lê đã thành công vang dội trong việc
nhiều lần đem quân chinh phạt Chăm pa. Đặc biệt, cái thế “thủ hiểm” ấy đã
giúp cho Lê Hoàn vững lòng, tự tin khi đem quân chặn đánh giặc Tống ở phía Bắc
và chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng năm 981.
Tuy nhiên địa thế của
Hoa Lư chỉ phát huy tác dụng trong thời loạn và khi thế và lực của nhà nước
chưa đủ mạnh. Ngược lại, khi thế và lực của đất nước đã đủ vững mạnh
thì cái ưu điểm “tiến khả dĩ công, thoát khả dĩ
thủ” lại trở thành cái hạn chế, gây trở ngại cho việc
xây dựng và phát triển phát đất nước. Hẳn là những thế mạnh và thế yếu
của Hoa Lư các nhà chính trị - quân sự tài ba như Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn
không phải không biết. Chỉ có điều, thế và lực của các vương triều khi đó
chưa đủ mạnh nên các ông vẫn phải dựa vào sự hiểm yếu của tự nhiên để tồn
tại. Trong điều kiền lịch sử đương thời như vậy, việc lựa chọn xây dựng kinh
đô ở Hoa Lư vẫn là sự lựa chọn số một của hai nhà Đinh, Lê. Có lẽ sau
này, khi đất nước phát triển đến một tầm cao mới, đủ tự tin nên Lý Công Uẩn đã
cho rời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long – Hà Nội) để xây dựng kinh đô mới, mở
ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước.
Thành cổ Hoa Lư bây giờ không còn
nữa, những trầm tích của cố đô hẳn vẫn còn nằm yên trong lòng đất và những bức
trường thành đứt đoạn, bị sạt lở cùng những dãy núi khổng lồ sừng sững giữa trời
xanh như thể những chứng nhân muôn đời cho miền đất cổ. Giờ đây dấu xưa giá trị
nhất chủ yếu tập trung ở hai ngôi đền thờ: Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Nghe
nói đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng là một hình ảnh thu nhỏ của kinh thành Hoa Lư. Theo
ký ức dân gian truyền lại, năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, nhân
dân trong vùng cố đô đã góp công chung sức xây dựng hai ngôi đền để tưởng nhớ
công lao của hai đức vua và những người cố công với đất nước. Trải qua năm
tháng, hai ngôi đền đã được trùng tu nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ diện mạo và
kiến trúc ban đầu. Kiến trúc của cả hai ngôi đền đều làm theo kiểu nội công ngoại
quốc, lối vào lát gạch hình chữ vương, các hạng mục công trình của hai ngôi đền
làm đối xứng nhau theo một trục dài, mô phỏng lại cung điện của nhà vua khi
xưa. Hai ngôi đền ẩn hiện dưới những tán cây cổ thụ xanh tốt nhìn rất cổ kính.
Trong đền còn giữa được nhiều tượng cổ tạc vương tướng nhà Đinh, trong đó có tượng
vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và Thái hậu Dương Vân Nga. Ngoài ra hai ngôi đền
đều được trang trí trạm khắc rất đẹp mang dấu ấn nghệ thuật của thời Hậu Lê với
những hình linh vật và muông thú, đặc biệt là hình rồng mẹ rồng con. Điều đáng
chú ý là cả hai đền đều giữ được nhiều đồ thờ quý hiếm, đặc biệt là những long
sàng bằng đá xanh nguyên khối cách đây khoảng trên bốn trăm năm được chạm khắc
rất tinh xảo: hình rồng, dạ xoa, thao thiết, phô thủ, sư tử và các muông thú.
Những long sàng cổ này đều đã được nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia vào
năm 2017.
Đã không ít lần đến cố đô nhưng lần
nào cũng vậy, lòng không khỏi bâng khuâng, thích thú ngắm nhìn và suy ngẫm về bốn
chữ “Bắc môn tỏa thược” (Cửa Bắc khép lại) trên nóc cổng chính vào đền vua Đinh
Tiên Hoàng. Bốn chữ này thật ý nghĩa, thâm sâu cao độ. Khi tế nhị với người nhà
Tống thì người ta bảo là nhắc nhở đề phòng gió mùa Đông Bắc (gió độc) nhưng
cũng ngụ ý nhắc nhở nỗi sợ truyền kiếp của nhà Tống được ghi khắc trên Vạn Lý
Trường Thành ở bên Trung Hoa. Còn đối với người dân Đại Cồ Việt thì đây là một
lời nhắc nhở, cảnh báo tựa di huấn của nhà vua với quân sĩ: Đề phòng phương Bắc.
Ngẫm nghĩ cho đến tận ngày nay, nghìn năm đã đi qua mà lời nhắc nhở của vua
Đinh vẫn còn nguyên ý nghĩa.
Phan Anh
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét