Tính đến nay, khi
nhà thơ Trịnh Bửu Hoài gần bước sang tuổi 60 thì ông cũng đã xuất bản tròm trèm
50 đầu sách với nhiều thể loại như thơ, tiểu thuyết, du ký, sưu khảo… Tuy nhiên,
điều đáng phục ở ông không phải là số lượng tác phẩm, mà là độ “sống” của tác
phẩm với thời gian. Có lẽ, đối với người sáng tác thì không gì hạnh phúc hơn
khi những tác phẩm của mình được bạn đọc thường xuyên nhắc đến.Dân An Giang chúng tôi không thể quên những tác phẩm
đã từng một thời được các cô cậu học trò chuyền tay nhau như Vụ án vườn Tao Ngộ, Nửa tuần trăng mật, Lẽo đẽo
bụi hồng, Ngan ngát mùa xưa, Màu tím học trò… và nhiều tác phẩm khác
nữa đã làm nên một Trịnh Bửu Hoài riêng và rất riêng trong lòng bạn đọc miền
sông nước - nhất là giới trẻ.
Gần đây, tập
thơ Ký ức là một tác phẩm khá ấn
tượng trong số “gia tài” văn chương của Trịnh Bửu Hoài tính đến nay. Ấn tượng
bởi một lẽ, tập thơ đầy tâm sự và hoài niệm với quê hương, với bạn bè, với
những vùng đất mà tác giả đã đi qua trong hơn nửa đời người - đúng như tên của
nó: Ký ức. Dù đây là một tập thơ
mỏng, chỉ vỏn vẹn 16 bài thơ trong 62 trang in, nhưng xét về chữ “tình” thì tập
thơ nầy lại khá dày dặn.
Như đã nói,
mảng đề tài chính của tập thơ là hoài niệm u buồn xen lẫn những cảm xúc yêu
thương của “nửa đời phiêu bạt” - như chính tác giả thổ lộ. Đến những nơi xa,
con người và vùng đất ở đó đã cho nhà thơ những ưu tư mà khi từ giã rồi ông vẫn
cảm thấy mình còn nặng nợ - cái nợ ân tình. Những lần hội ngộ bạn thơ cũng đã
để lại cho ông nhiều kỷ niệm. Tất cả được ông trân trọng góp nhặt vào tập thơ
mỏng nầy.
Có một điều
đáng chú ý là trong Ký ức ta ít bắt
gặp đề tài tình yêu hay quê hương sông nước như những tập thơ khác của nhà thơ Trịnh
Bửu Hoài. Mặt khác, ở tất cả các bài thơ trong tập đều được ông đề tặng cho
những người bạn của mình. Có lẽ đây tập thơ ghi lại những kỷ niệm của nhà thơ ở
“xứ người” nên ông dành nhiều tình cảm của mình tặng cho những con người nghĩa
tình ấy.
Bài thơ đầu tiên
trong tập là Bạn tôi, một cái tên
chân phương mang nghĩa tường minh đầy giản dị. Bài thơ nầy tác giả viết tặng
Lộc Vũ - nhà thơ gắn bó cuộc đời với mảnh đất An Giang nhưng chẳng may mất sớm.
Trịnh Bửu Hoài đã viết về bạn mình: “Bạn mang hồn phương đông / Quay
lưng ra phố chợ / Áo cơm không là nợ / Hồn phơi phới ngàn lau”.
Nếu Bạn tôi chỉ ghi lại hình ảnh của một con
người, thì ở Đêm ngủ dưới chân Ngự Bình
và Về phố cổ, tác giả đã lồng cả tình
đời và tình thơ vào tác phẩm, đến độ dường như có thể kéo giãn cả thời gian
theo trang thơ. Đến xứ cố đô, ngủ đêm ở nhà của nhà thơ Ngàn Thương, hoàn cảnh
nghèo khó của bạn thơ đã khiến Trịnh Bửu Hoài thao thức: “Nhưng ta làm sao
ngủ được / Huế thơ mà bạn ta nghèo / Quá đêm còn nằm thao thức /
Ngậm ngùi một mảnh trăng treo” (Đêm ngủ dưới chân Ngự Bình). Đến Hội An gặp
gỡ nhà thơ Nguyễn Miên Thượng, tình nghĩa của những người thơ làm cho khoảng
cách về tuổi tác như lùi xa, cả hai đã qua nửa đời người nhưng điều đó chẳng sá
gì với hồn thơ lấp lánh của họ: “Bạn sống như chàng hát rong / Ta
cũng nửa đời phiêu bạt / Gặp nhau mái đầu chớm bạc / Nụ
cười sao rất hồn nhiên” (Về phố cổ).
Và, khi bắt gặp bài
thơ Tiễn bạn trong tập thơ nầy, đọc
lại tôi thật sự thấy bồi hồi…
Có thể nói, Tiễn bạn là một trong những bài thơ của
nhà thơ Trịnh Bửu Hoài được nhiều người biết đến nhất, nhất là với hai câu thơ
để đời “Đất khách muôn trùng sao nhỏ hẹp / Quê nhà một góc nhớ mênh
mông”. Tiễn bạn được cây bút trẻ
Trần Sang gọi là “cuộc tiễn đưa lay động lòng người”.
“Ra đi đâu phải không về
nữa
Mà khói hoàng hôn
cay mắt nhau
Mà chiều như rụng
theo chân bước
Và nắng đường xa
bỗng bạc màu”
Tôi đã đọc Tiễn bạn nhiều lần, trong một số tuyển
tập in chung có tác giả Trịnh Bửu Hoài góp mặt, mỗi lần đọc là một lần cảm nhận
lại nỗi niềm của người xa xứ, xa quê. Bài thơ vỏn vẹn bốn khổ thơ bảy chữ, viết
theo lối chân phương, không đánh đố, không cao xa mà nặng nghĩa tình. Đọc xong tâm
trạng còn đau đáu…
Hay một lần về Tây
Nguyên, nhớ người bạn thơ nhiều năm lận đận nổi trôi, tác giả cảm thấy phố
phường cao nguyên như trống trải đìu hiu: “Phố núi bây giờ đi mỏi gối /
Một mình ta các ngõ chợt buồn tênh / Vắng bạn hoàng hôn mù sương
khói / Mái tóc ngày xưa có ngọt mềm” (Về Pleiku nhớ bạn). Nỗi nhớ
người xưa không vơi trong lòng, nhưng người vẫn mờ như sương khói, đâu còn tìm
lại những lần hội ngộ cùng nhau, để rồi nỗi nhớ làm ông thốt lên: “Ta ngó
núi không buồn rót rượu / Núi nhìn ta lạ một bóng đời / Cao nguyên ơi
đêm này không ngủ / Nằm nghe rừng núi hát thơ người...” (Về Pleiku nhớ
bạn).
Và, Buồi chiều thiên niên kỷ là bài thơ tôi
vẫn thường nghĩ đến khi có dịp ngồi lại cùng những người bạn của mình. Không
biết vì sao những vần thơ bình dị ấy lại ám ảnh tôi, đọc lên cứ nhớ bạn bè da
diết. Không triết lý, không hàm ý, chỉ là những dòng tâm sự bình thường. Bình
thường? Biết đâu chính điều đó lại là cái hay! Vì quá bình thường nên ai cũng
có thể cảm nhận và xao xuyến khi khe khẽ đọc: “Năm thằng nhớ những chiều xa
/ Lần giở từng trang ký ức / Dù đời là mơ hay thực / Ngày mai trời vẫn xanh màu
// Ngày mai nắng vẫn xôn xao / Chào bình minh thiên niên kỷ / Năm thằng vẫn là
tri kỷ / Ung dung đi giữa cuộc đời…”. Bao nhiêu kỷ niệm vui buồn bên bè
bạn, của tôi, của ông, của mọi người… tự dưng thấy ấm áp biết bao!
Nhà thơ Trần Xuân An
từng nhận xét: “Trong tình bạn thâm giao, Trịnh Bửu Hoài khi viết về bạn, cũng
là lúc anh thể hiện chân thành, trung thực chính anh một cách mặc nhiên mà có
thể anh không ngờ đến”. Nếu theo nhận xét như trên, thì tôi xin mạn phép chọn
hai bài trong tập thơ nầy tiêu biểu cho “dòng thơ viết về bằng hữu” của Trịnh
Bửu Hoài, là Uống rượu bên hồ Trúc Giang
và Chiều Kinh Bắc.
Uống rượu bên hồ Trúc Giang (viết tặng nhà thơ
Tô Nhược Châu) có những câu thơ mang tính triết lý, vẻ đạo mạo - điều ít thấy
trong tập thơ Ký ức: “Bạn mừng ta
tay run rót rượu / Ta mở lòng hớp ngụm tình xưa / Bão thời gian
chẳng mòn ký ức / Há chi trời đất có sang mùa / Ta cứ rót bóng mình
trong đáy cốc / Trần gian là một cuộc vui đùa / Khói thuốc bay tưởng
mây trời đáp xuống / Nhướng mắt nhìn thế cuộc có say chưa”. Tình thơ
và tình người đã làm tất cả trở thành hư ảo, thời gian có trôi qua như bão tố
cũng không làm mòn đi những nỗi nhớ niềm thương thì nào có quản chuyện tháng
năm trôi… Bởi lẽ: “Bạn gánh nghiệp đời như gánh mộng / Thế
mà sương khói nặng đôi vai / Ta lên núi để rồi xuống
núi / Đạo sư buồn trắng cả hai tay / Chí lớn
phù hoa như bọt nước / Phú quí cơ hồ như mây bay”
Chiều Kinh Bắc lại là một cuộc chia tay đầy lưu luyến mà
ai đọc xong cũng không kìm được xúc động:
“Đời hợp tan là lẽ thường
tình
Vậy mà cũng rưng
rưng nước mắt
Làm chân ta cứ vấp
chân mình
Những tưởng là say,
ừ say thật
Vẫy tay hoài bóng
bạn cứ lung linh!”
Biết rằng có hợp có
tan, nhưng tác giả vẫn không giằng lòng được, để đến nỗi chân cứ vấp chân. Tự viện
cớ là đã say rượu, nhưng thật ra ông đang say tình người, mà ra đi rồi biết khi
nào gặp lại. Nỗi nhớ ấy đầy khắc khoải: “Vẫy tay hoài bóng bạn cứ lung linh!”
Đưa bạn về chốn vĩnh
hằng, tác giả đã viết nên những dòng thơ da diết. Đây cũng là những vần thơ mà Trịnh
Bửu Hoài dành tặng một người bạn thơ thân thiết - nhà thơ Phạm Hữu Quang: “Bạn
đã về. Mãi mãi Bắc Đuông / Dòng sông xưa hát lời ru của mẹ / Những
câu thơ bây giờ lặng lẽ / Kết thành sao soi một kiếp người / Dừng bước
giang hồ. Bạn đã thảnh thơi / Chuyện áo cơm cũng thành sương khói /
Cồn Nguyễn Du gió mùa vẫn thổi / Không còn ai bên máy chữ gọi thơ về”.
Với Ký ức - bài thơ duy nhất trong tập viết
về nơi nhau rún, Trịnh Bửu Hoài cũng trút vào thơ hết cả nỗi niềm của người con
bao năm lăn lộn giữa chợ đời tìm kiếm công danh:
“Ta trở về tìm lại tuổi thơ
Bóng thời gian ngã
dài dưới tàn đa cũ
Trời vẫn trẻ mà cây
thành cổ thụ
Ta chạnh lòng thèm một
chút hồn nhiên”
Trong tập, người đọc
sẽ bất ngờ khi phát hiện những bài thơ với phong cách “lạ”: “Dưới trời không
đất / Trên đất không trời / Nhân gian lơ lửng / Ai màng cuộc
chơi // Hoa yên mù khói / Ẩn hiện chùa Đồng / Người tham tiếng
mõ / Gió gõ chuông không” (Yên Tử Sơn). Hay âm tiết đầy tinh nghịch,
phóng khoáng như: “Tây Bắc chập chùng mây chớn chở / Hồn cao như núi
thân như cỏ / Lương Sơn một dải lúa xanh rì / Đà Giang bóng
nước cuốn chiều đi” (Hành Tây Bắc).
Khép lại tập thơ,
không gì nhiều hơn… hoài niệm. Tình bạn, tình người phương xa, tình đất lạ đã
đắp nên bức tranh thơ giản dị mà nặng tình. Tác giả viết theo lối truyền thống,
không cách tân, không chọn hình ảnh xa vời lạ lẫm, nhưng cũng không sáo rỗng,
mà trái lại người đọc lại thấy thân thương, quen thuộc lạ thường. Xin được mượn
lời của nhà thơ Trần Xuân An nhận định chung về thơ Trịnh Bửu Hoài: “Thơ Trịnh
Bửu Hoài vì không quan tâm nhiều đến cấu tứ, không cố quyết làm cho mới, cho lạ
câu chữ, cũng không hô hào cách tân, mà anh chỉ đặt nặng ở cái tâm, cái tình,
nên mặt mạnh của thơ anh chính là ở tâm và tình thể hiện trong thơ”.
Được chắt lọc từ
những giai điệu mượt mà của châu thổ phương Nam, thơ của Trịnh Bửu Hoài là thơ
của “Bình rót nghìn thu chưa cũ / Bâng khuâng ấm một giọt nồng”.
VĨNH THÔNG (tác giả giữ bản quyền)
___________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét