Thúy Kiều - nhân vật chính trong tác phẩm
“Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du - là nhân vật mà Nguyễn Du dành nhiều ưu ái
nhất, gửi gắm nhiều tâm huyết nhất. Phải chăng có sự tương cảm về cuộc đời
truân chuyên, lận đận của Kiều mà Nguyễn Du đã nhờ Kiều nói thay mình nhiều
nhất về cuộc đời, về nhân sinh quan, thẩm mỹ quan sáng tác ; như cảm nhận của
nhà thơ Tố Hữu: “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”.
Cuộc đời Kiều đo
bằng mười lăm năm lưu lạc, đong đếm bằng tâm trạng bi thương, bằng đầm đìa nước
mắt và thổn thức trong tiếng đàn “bạc mệnh” đọan trường! Tiếng đàn của
Kiều đã vang vọng suốt chiều dài tác phẩm, vào đúng những thời điểm chuyển
giao, đánh dấu những bước ngoặt của số phận…
Có đến chín lần Kiều gảy đàn: (1) lúc
tương ngộ trao duyên cùng Kim Trọng ; (2) lúc Mã Giám Sinh thử tài sắc ; (3)
lúc ở lầu xanh ; (4) lúc sống với Thúc Sinh ; (5) lúc Thúc ông tra vấn ép đánh
đàn làm thơ ; (6) lúc làm nô tỳ ở nhà Hoạn Thư ; (7) lúc hầu tiệc vợ chồng Hoạn
Thư ; (8) trong tiệc mừng công của Hồ Tôn Hiến và (9) lúc đoàn viên với Kim
Trọng. Tuy nhiên, cung đàn hay nhất, thổn thức nhất được Nguyễn Du đặc tả
ở bốn bước ngoặt trong cuộc đời Kiều.
1. Trao duyên cùng Kim Trọng:
“So vần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã- Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạt bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm
sập như trời đổ mưa”.
Đây là lần đầu tiên Kiều đánh đàn cho
người khác nghe. Hẳn đây là nhạc phẩm “Bạc mệnh” do Thúy Kiều soạn lúc
tuổi còn cập kê. “Khúc nhà tay lựa nên xoang / Một thiên Bạc mệnh
lại càng não nhân”.
Bản đàn có bốn khúc thức:
- “Khúc đâu Hán Sở tranh hùng
/ Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau”. Khúc đàn bi ai của
hồn tử sĩ, của tiếng binh khí va chạm, tiếng nhạc ngựa vang vang…cảnh của bãi
chiến trường, cảnh con người tương tàn, sát hại nhau, đau thương tràn ngập.
- “Khúc đâu Tư Mã - Phượng cầu
/ Nghe ra như oán như sầu phải chăng!”. Khúc đàn ai oán, chan
chứa ẩn tình tha thiết giữa Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.
- “Kê Khang này khúc Quảng Lăng
/ Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân”. Khúc đàn gợi lên nỗi
lòng cảm khái nhớ đất Quảng lăng của Nhà Ngụy mất vào tay nhà Tần; cũng là sự
vô thường của sự đời, của phù vân, như nước chảy mây bay.
- “Quá quan này khúc Chiêu Quân
/ Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia”. Khúc đàn nức nở của
cảnh tử biệt sinh ly, của cõi lòng tê tái; cảnh chia lìa của mối tình Hán
Nguyên Đế và Vương Tường (Chiêu Quân) khi Chiêu Quân qua cửa ải, trên đường
triều cống Rợ Hồ.
Bản nhạc đàn dạt dào cảm xúc, nhiều cung
bậc, réo rắt thanh âm; tiếng đàn uyển chuyển như nước chảy, mây trôi; trong
trẻo như tiếng cánh hạc bay qua, ầm ào như thác đổ, như tiếng gió nhẹ, tiếng
mưa ồ ạt rơi, tiếng binh khí, tiếng nhạc ngựa…
Trao duyên bằng bản nhạc ai oán, nức nở,
phải chăng là điềm gỡ, là dấu hiệu của cuộc tình buồn, tan vỡ, chia ly?! Buồn
đến nỗi, Kim Trọng - người trong cuộc - nghe tiếng tơ đồng mà lòng dâng đầy cảm
xúc:
“Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày”.
Rằng: “ hay thì thật là hay,
“Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
2. Hầu tiệc vợ chồng Thúc Sinh - Hoạn Thư
Sau buổi trao duyên đó, đời Kiều bước vào
cơn gió bụi.
Với thân phận vợ lẻ, Kiều bị mụ Hoạn
Thư - con quan Lại Bộ - vợ cả của Thúc Sinh bày mưu hành hạ, đọa đày để thỏa
cơn ghen tức lạ đời:
“Làm cho nhìn chẳng được nhau
Làm cho đày đọa, cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”.
Kiều bị bắt cóc, bị đánh đập tàn nhẫn và…
xung vào đội nô tỳ của nhà họ Hoạn. Thúc Sinh làm ăn xa, trở về
nhà. Buổi gặp lại, bữa hầu tiệc trớ trêu đã diễn ra.
“Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi
Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài,
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!”
Kiều gảy đàn:
“Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”
Nguyễn Du quả là tài tình khi miêu tả tâm
lý và đúc kết tâm trạng của Thúy Kiều, Thúc Sinh (người trong) và Hoạn Thư
(người ngoài) một cách tinh tế, cô đọng, đầy tình thương cảm với người trong
cuộc.
Có cảnh nào trớ trêu hơn: vợ - chồng thành
chủ - tớ, thành người xa lạ, chẳng dám nhìn mặt nhau. Tiếng đàn của Kiều đã dấy
lên điều đó. Tiếng đàn như khóc như than… làm tan nát cõi lòng người trong
cuộc. Hãy dõi theo tâm trạng Thúc Sinh khi nghe đàn:
- “Giọt
châu lả chả khôn cầm / Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt tương”
- “Sinh càng thảm thiết bồi hồi
/ Vội vàng gượng nói gượng cuời cho qua.”
- “Sinh
thì gan héo ruột đầy / Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng”.
Mộng Liên Đường Chủ nhân (Văn sĩ, đỗ Tú
tài năm 1820, thời Minh Mạng) nhận xét: “Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt,
mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt,
đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ
suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái cái bút lực ấy”.
3. Hầu tiệc mừng công thắng trận của Hồ
Tôn Hiến
Cơn gió bụi trong cuộc đời Kiều một lần
nữa dậy lên. Từ Hải nghe lời khuyên của Kiều về hàng quân triều đình để có
cuộc sống vinh hoa, an bình, theo lời hứa hẹn của Hồ Tôn Hiến, mà bị phục binh,
thất trận, tử vong giữa chốn trận tiền. Chưa hết bàng hoàng, đau đớn thất
thần giữa đám hỗn quan, hỗn quân; trong bữa tiệc mừng công, Hồ Tôn Hiến: “Bắt
nàng thị yến dưới màn / Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu”. Kiều gảy
đàn
“Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vuợn hót nào tày.”
Miêu tả tâm trạng như thế quả là tuyệt
bút. Quả là đầy tính nhân văn! Chỉ vì thương xót thân phận chìm nỗi của
Kiều, muốn thôi dấy binh để có được cuộc sống yên bình hạnh phúc mà Từ Hải đã
phí đi một đời ngang dọc; trả giá cả sinh mệnh của mình. Có cay đắng nào hơn
khi vợ, vì nhẹ dạ, đã đẩy chồng vào chỗ chết! Bây giờ lại bắt phải gảy đàn mua
vui cho kẻ đã chủ mưu giết hại chồng mình! Trái tim rỉ máu vì nỗi thảm sầu, năm
đầu ngón tay đánh đàn nhỏ máu vì thân xác cũng đớn đau vô hạn!
Nguyên Lượng đánh giá: “Chỉ thử nhất
cú vô hạn thương cảm, tưởng đương nhật Thúy Kiều ngũ chỉ thượng huyết thanh đô
tùng tác giả nhất chỉ bút đầu tâm huyết trung xuất lai”. Chỉ một câu đây
mà lòng thương cảm vô hạn, tưởng ngày ấy những tiếng đẫm máu trên năm đầu ngón
tay của Thúy Kiều đều do từ tâm huyết của tác giả mà trào ra đầu ngọn bút.
Tiếng đàn quá não nùng ai oán khiến Hồ Tôn
Hiến, một võ tướng, đang hừng hực khí thế thắng trận, khi nghe đàn:
“Lọt tay Hồ cũng nhăn mày châu rơi
Hỏi rằng: “này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”
Mộng Liên Đường Chủ nhân viết: “Khúc
đàn Bạc mệnh gảy xong mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu người đời xa khuất,
không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn
bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm
ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải”.
4. Kim - Kiều tái hợp
Đoạn trường rồi cũng qua! Muời lăm
năm lưu lạc, thân phận như sóng vỗ bèo trôi rồi cũng đến lúc sum vầy, khổ tận
cam lai. Kim Trọng và Thúy Kiều khi gặp lại: “Bâng khuâng duyên mới
ngậm ngùi tình xưa / Những từ sen ngó đào tơ / Mười lăm năm mới bây
giờ là đây” và “Tình xưa lai láng khôn hàn / Thong dong
lại hỏi ngón đàn ngày xưa”. Kiều gảy đàn:
“Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên?
Trong sao châu nhỏ duyền quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông”.
Đây là lần cuối cùng Thúy Kiều đánh đàn.
Cũng bởi vì tiếng đàn “Bạc mệnh” đã đeo đẳng số phận lênh đênh của Kiều suốt
mười lăm năm ; tiếng đàn đã vận vào tình yêu tan vỡ, ly biệt của Kiều và Kim
Trọng… Và, chỉ một lần này nữa thôi, dành cho người tri kỷ, người bạn tình
chung:
“Một phen tri kỷ cùng nhau
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa”.
Tuy vẫn là bản đàn “Bạc mệnh” ấy song giờ
đây, bằng tình xưa lai láng; bằng niềm hân hoan vì “gương vỡ lại lành” ; trái
tim Kiều rung lên khúc đàn tình ái, tưởng như còn trong miền ký ức, nửa
thực nửa mộng… Khúc đàn trở nên đầm ấm, êm ái xuân tình; âm thanh trong trẻo,
ấm áp vô cùng… đến nỗi Kim Trọng, người tình xưa, nghe tiếng đàn cũng cảm thấy
khác lạ:
“Chàng rằng: “Phổ ấy tay nào
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?”.
Bốn lần gảy đàn đều là bốn lần không do
Kiều tự nguyện! Cùng là một bản đàn nhưng Nguyễn Du miêu tả bốn lần đều mang
sắc thái, thanh âm khác nhau… cách thể hiện lại tinh tế, sinh động trạng thái
tâm lý, chuyển biến tình cảm của “người trong cuộc” một cách tài tình. Có thể
nói, tiếng đàn nhiều cung bậc, đầy tâm trạng ấy đã tác động mãnh liệt đến tâm
tư, tình cảm người nghe đến tận cùng.
Dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Du,
thông qua tiếng đàn của Thuý Kiều, thế giới tình cảm tế vi của các nhân vật:
Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến… và nhất là Thúy Kiều được cụ thể
hóa một cách sinh động, đặc sắc. Tả hoạt động để chuyên chở tâm trạng, tình cảm
; từ tâm trạng, tình cảm hiện lên đầy đủ bản sắc, tâm hồn, tính cách nhân vật -
Bản thể người.
Điều cuối cùng, qua tiếng đàn của Thúy
Kiều, người đọc cảm nhận sức mạnh vô biên của âm nhạc. Tiếng tơ đồng cũng chính
là tiếng lòng; là nhịp đập đầy bất trắc của con tim trước cuộc đời biến động,
trao đến con tim người nghe những cung bậc đầy ắp tâm tình. Và, chính ngòi
bút Nguyễn Du mới làm nên điều kỳ diệu đó.
HỮU DU (tác giả giữ bản quyền)
______________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
THƠ ĐỒNG BẰNG & NHỮNG CUNG BẬC
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét