Trà Sư là địa danh thuộc tỉnh An Giang,
nằm về phía hữu ngạn thượng nguồn sông Hậu. Tôi chưa đến đây lần nào. Mùa nước
nổi ở Trà Sư, tôi càng không biết. Nhân đọc bài thơ “Trà Sư mùa nước nổi” của
Hồ Thanh Điền, vừa đăng trên tuần báo Văn Nghệ trung ương vào cuối xuân 2008,
tôi bất ngờ biết được ít nhiều về đây.
Khổ 1: “cá lặn sâu/ cồng cộc hụt hơi/
dơi lộn cổ soi gương/ cò rạc cẳng chiều…” cho biết mực nước thì cao (hoặc
đáy nước sâu), màu nước thì trong và diện tích bề mặt thì rộng. Ngoài ra, bên
trên mặt nước có nhiều tán lá cây làm nơi đeo ngủ lộn đầu cho loài dơi nơi đây.
Đặc biệt, câu tiếp theo, “hình như bấc về”,
cho biết khí hậu vùng Trà Sư mùa nước nổi khá lạnh, như vào thời đoạn có gió
mùa đông bắc tràn về. Và, câu cuối khổ, “hình như em đi”, là một liên cảm qui
nạp đột ngột. Từ đây, nó biến khung cảnh mùa nước nổi hiện thực ở vùng Trà Sư
thành khung cảnh nội tâm của chủ thể trữ tình trong bài thơ. Nó làm cho “cá lặn
sâu” trở thành hàm ngôn liên văn bản với câu ca dao quen thuộc trong tâm thức
mọi người như sau: “sông dài cá lội biệt tăm/ phải duyên chồng vợ ngàn năm
cũng chờ”. Và, theo logic nghệ thuật này, những “cồng cộc”, “dơi” và “cò”
ở đây không gì khác hơn nỗi niềm tâm tư chờ trông, kiếm tìm, khổ sở, tra vấn,
phản tỉnh… của chủ thể trữ tình trong bài thơ sau khi đã được cụ tượng hoá, vật
thể hoá. Và, dĩ nhiên, đối tượng gây ra các trạng thái nội tâm trên chính là
nhân vật “Em” trong bài thơ. Nhân vật này cũng rất đặc biệt. Không có mặt mũi,
vóc dáng, lai lịch. Chỉ là một phiếm xưng. Thực chất, nó chính là sự đối ảnh
hoá bản thân nhà thơ. Đúng hơn, nó là sự hình tượng hoá tập trung những ẩn ức
khát vọng mang tính bản thể nhất của chủ thể trữ tình trong bài thơ… Ẩn ức khát
vọng vì đối của nó đã “đi”, đã khuyết rỗng, đã vắng mặt, đã không còn lại bên
đời …
Khổ 2: “tràm mấy úa/ em mấy long đong/
hình như lá/ hình như nước/ cuốn đời ta lận đận”. Trong văn cảnh này,
“hình như lá” có giá trị nội dung ý nguyện chủ quan, vừa của chủ thể trữ tình
trong bài thơ, vừa của nhân vật “em”. Gom chung lại, chính là tâm hồn Hồ Thanh
Điền ở tư cách một nhà thơ.
“Hình như nước/ cuốn đời ta lận đận”
có giá trị nội dung “định luật khách quan”, đã “cuốn” ý chí chủ quan của “lá”
vào cảnh đời “lận đận”. Ở đây, “lá” là hình ảnh khát vọng mang tính chất
thể của chủ thể trữ tình trong bài thơ; “nước” là hình ảnh giới hạn khách quan,
mang tính định luật vô tình, mù quáng, khắc nghiệt nhất… “Hình như lá/ hình
như nước/ cuốn đời ta lận đận” có nội dung nghĩa tương tự câu nói sau đây
của Khổng Minh Gia Cát Lượng khi xưa: “Nhân nguyện như thử, như thử… Thiên
lý vị nhiên, vị nhiên…" (Người mong muốn như vầy, như vầy… Lẽ tự
nhiên, khách quan thì như vậy, như vậy…). Còn “tràm mấy úa/ em mấy long
đong” thì rất dễ hiểu. Đây là kiểu loại tu từ so sánh theo thi pháp ca
dao: “rừng bao nhiêu lá em thương mình bấy nhiêu”/ “tràm mấy úa
thì em mấy long đong như tràm”.
Khổ 3: “rừng cây xanh/ mấy mùa nước nổi/
cò trắng lông/ dơi ngủ ngược/ cồng cộc đen đời”. Ơ đây, “rừng cây
xanh/ mấy mùa nước nổi” có giá trị nội dung định lượng thời gian. “Cò
trắng lông/ dơi ngủ ngược/ cồng cộc đen đời” là những thở than. Thở than
về tính “định mệnh” của “lá” trước “nước”. Về tính “định mệnh” của cái “nhân
nguyện” trước cái “thiên lý”. Của cái “ta thích” trước cái “ta được”. Chẳng
những thế, “dơi ngủ ngược”, “cồng cộc đen đời” còn được nâng lên tầm ẩn ý khác.
Đó là tính “mê chân trục vọng, mê kỷ trục vật, nhận thức mê căn, niệm đầu tác
vĩ…” của phần đông nhân sinh hiện tiền. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, ấy là sự
tha hoá toàn diện của thế nhân: đầu tư, trút đổ đời mình vào những công trình
khát vọng ngày càng vắng mặt sự hiện hữu của chính mình bên trong. Như con cồng
cộc trong một câu truyện ngụ ngôn của Phật giáo: cứ phải chúi đầu lặn ngụp cả
đời vào nước sâu để tìm lại nổi khát khao ở một nơi, một hướng không bao giờ
có, không bao giờ gặp… Hoá ra, đến đây, cảnh nước nổi ở Trà Sư còn là hình ảnh
ẩn dụ về “bể đời” trong con mắt thơ của Hồ Thanh Điền… Có lẽ, đây là tầng ẩn dụ
“lặng” và “chìm” nhất nơi bài thơ…
Khổ cuối: “Sóng thu Nguyễn Khuyến/ lá
sen rung/ rộng đường cá/ hẹp đường chim/ hình như cò gió/ hình như lạnh em”. Đây
là đoạn kết bài thơ “Trà Sư mùa nước nổi”. Nếu ở khổ đầu Hồ Thanh Điền đã tả
xong mực nước, màu nước, diện tích mặt nước… thì, nơi đây, anh bắt đầu tả đến
“sóng”. “Sóng thu Nguyễn Khuyến”, vì mặt nước nổi ở Trà Sư bấy giờ vừa đang ở
vào mùa thu, lại vừa đang “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” như từng được Nguyễn
Khuyến, vào cuối thế kỷ 19, tả trong bài “Thu Điếu”.
Chẳng những vậy, “sóng thu Nguyễn Khuyến”
còn là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt riêng của Hồ Thanh Điền. Anh mượn các
câu thơ sau đây của Nguyễn Khuyến: “ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ lá vàng trước gió
sẽ đưa vèo…” để tả khung cảnh hiện thực “Trà Sư mùa nước nổi” mà anh đang
đối diện, đang thưởng thức; cùng những tâm tư, tình cảm hiện thực tương ứng mà
anh đang có trong lòng.
Tuy nhiên, tại đây, về mặt tình cảm, tâm
tư, sau khi đã “là” Nguyễn Khuyến rồi, Hồ Thanh Điền vẫn chưa thôi. Câu tiếp
theo, anh viết: “lá sen rung”. Trong mạch tư duy thơ và trong văn cảnh này, khó
mà không liên tưởng đến bài thơ “Cảnh Nhàn” sau đây của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “một
mai, một cuốc, một cần câu/ thơ thẩn dù ai vui cảnh nào/ ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ/ người khôn người đến chốn lao xao/ thu ăn măng trúc, đông ăn giá/xuân
tắm hồ sen, hạ tắm ao/ rượu đến gốc cây ta khẽ nhắp/ nhìn
xem phú quí tựa chiêm bao”. Và, tương tự như câu “ sóng thu Nguyễn
Khuyến”, Hồ Thanh Điền lại mượn tâm tư, tình cảm, nổi lòng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm “nói hộ” nổi lòng chủ thể trữ tình trong bài thơ. “Nói hộ” cảnh “rộng
đường cá/ hẹp đường chim”: bon chen nhau trong “cái chậu”, “cái lồng”
“niệm đầu tác vĩ” là đáng chán, đáng xa lánh biết bao. Đáng vượt thoát biết
bao. Đáng lấy sông nước cỏ cây… thay vào biết bao.
Hai câu cuối của khổ thơ này: “hình
như cò gió/ hình như lạnh em” là kiểu dạng điệp ý, “điệp khúc”. Nó nhắc
nhở tính khẩn thiết của sự vượt thoát, của sự trở về. Trở về với “sóng thu
Nguyễn Khuyến”, với “lá sen rung”. Về mặt tâm linh, ấy là sự trở về với chính
mình. Là sự thu hồi lại những gì đã từng tha hoá toàn diện khi xưa… Bởi, “hình
như cò gió” chính là cảnh “cò rạc cẳng chiều” và gió “bấc về” nằm tại khổ thơ
đầu nói trên. Một thủ pháp hồi hoàn điệp ý với ý đồ nghệ thuật đậm hoá cảm
nhận, ý thức cùng nổi niềm của chủ thể trữ tình trong bài thơ trước cảnh “Trà
Sư mùa nước nổi”…
Ngẫm ra, “Trà Sư mùa nước nổi” là một công
trình sáng tạo nghệ thuật thơ ca mà “vật tư chữ nghĩa” đã bị Hồ Thanh Điền cố
tình “ăn xén, ăn bớt” thật nhiều. Tuy nhiên, nhờ lấy ngay ký ức xúc cảm thẩm mỹ
thơ ca tiền văn bản nơi người đọc bù vào, bằng “dăm” con chữ vừa được thiết kế
theo hướng siêu ngôn, vừa theo hướng liên tưởng – hoài niệm biểu tượng cụm,
biểu tượng chùm, đặc biệt là biểu tượng khối, nên chất lượng ý tứ bài thơ không
bị rỗng, bị xốp. Người đọc có thể “ký duyệt nghiệm thu” được. Tất nhiên, đây
chỉ là một trong nhiều mô thức thẩm mỹ thi ca mà người đồng bằng sông Cửu Long
chúng ta đang sở hữu. Xin hoan nghênh nổ lực tìm tòi, đổi mới về bút pháp của
Hồ Thanh Điền, thể hiện nơi bài thơ này…
TRẦN MINH TẠO (tác giả giữ bản quyền)
_______________________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
THƠ ĐỒNG BẰNG & NHỮNG CUNG BẬC
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét