Nhiều năm trôi qua, sau này nhớ lại những ngày tháng cũ, đôi khi những kỷ niệm
êm đềm làm ta quên hết những điều chưa tốt đẹp. Thật ra, Văn Khoa hồi ấy, giữa
không khí chiến tranh nóng bỏng bao trùm đời sống, còn rất nhiều thiếu thốn và
bất tiện để có thể xem là một trường đại học đúng nghĩa. Tòa nhà trên đường Cường
Để này vốn là nơi đóng quân của “Lữ đoàn liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống”,
nhường chỗ cho nhà trường chuyển đến từ đường Gia Long, nhưng vẫn giữ một phần
diện tích cho mục đích quân sự, với hàng rào kẽm gai ngăn cách. Trong sân trường
xe cộ để ngổn ngang. Dãy phòng học một tầng mái thấp, nóng bức, với những chiếc
ghế hàn vỉ sắt làm rách quần những sinh viên đãng trí. Muốn đến giảng đường học
môn Văn minh Việt Nam, môn học thường phải đi sớm để giữ chỗ vì quá đông sinh
viên nghe giảng, phải bước lên cầu thang cạnh một nhà vệ sinh luôn bốc mùi, đến
nổi có lần thầy Thanh Lãng nói đùa cái mùi đó là đặc trưng của trường Văn Khoa!
Cũng vì lớp đông nên sinh viên thường chỉ nghe giảng, ghi chép và đọc cours;
vài lần muốn tổ chức séminaire, thầy Nguyễn Văn Trung phải đi dã ngoại với
chúng tôi ra La San Mai Thôn hay rừng cao su gần Đường Sơn Quán.
Nhưng Văn Khoa để lại ấn tượng sâu đậm không phải vì cảnh quan mà vì những con
người đáng quý trọng. Hồi đó, ngay trong hai năm đầu, lớp chúng tôi đã được học
thầy Trần Thái Đỉnh với cách giảng bài khúc chiết, thầy Lê Tôn Nghiêm sâu sắc,
thầy Lê Thành Trị điềm đạm, thầy Giản Chi lão thực, thầy Bửu Dưỡng uyên
bác, thầy Nguyễn Duy Cần nghiêm nghị… Có những lần giờ tan học qua lâu, thầy
Kim Định với chiếc áo dài trắng như một đạo sĩ, vẫn còn nán lại trên hành lang
giải thích thêm cho chúng tôi về triết lý an vi. Thầy Lê Xuân Khoa lịch thiệp,
bận công việc ở Viện Đại học, dành những buổi tối dạy cho chúng tôi môn triết học
Ấn Độ.
Có thể nói Văn Khoa Sài Gòn là nơi tập hợp nhiều khuôn mặt trí thức tiêu biểu của
miền Nam thời ấy. Văn Khoa cũng là nơi phát khởi những khuynh hướng học thuật mới
mẻ, những phong cách độc đáo trong biên khảo, trước tác và dịch thuật. Những bộ
sách về lịch sử triết học và văn học, về lý thuyết và phương pháp luận sử học,
nhân học, ngữ học, phê bình văn học… của các giáo sư Đại học Văn Khoa chắc chắn
sẽ được các thế hệ sau kế thừa.
Năm hòa bình đầu tiên
Mùa hè năm 1975, mọi thứ được sắp xếp lại, các thầy cô giáo dự lớp học chính trị
riêng, sinh viên nghe giảng riêng, sau đó mỗi thầy được cử đến một tổ sinh viên
để cùng thảo luận về “chuyên chính vô sản” và nhiệm vụ của nhà trường mới. Học
chính trị xong, chúng tôi học chuyên môn với các thầy cô đến từ Hà Nội. Hầu hết
thầy cô giáo Văn Khoa ở lại đều không lên lớp mà chỉ nghiên cứu thuần túy, một
ít người chuyển sang dạy Hán Nôm hay ngoại ngữ. Hoàn cảnh đổi thay nhưng tình
thầy trò không thay đổi: những ngày đầu tháng 5 thầy Lê Thành Trị, khoa trưởng,
cùng sinh viên chuẩn bị hội trường đón tiếp đoàn giáo sư miền Bắc do ông Phạm
Như Cương dẫn đầu; các thầy Lý Chánh Trung, Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh lên
thăm chúng tôi trồng cây trên Chánh Phú Hòa; thầy Thanh Lãng mặc áo ký giả đến
dự Hội Tết Văn Khoa năm hòa bình đầu tiên… Văn Khoa sẽ vui biết mấy nếu không
khí hòa hợp đó còn mãi kéo dài.
Còn nhớ một buổi tối trong năm học chuyển tiếp đó, khi đến cư xá Thanh Quan,
tôi thấy thầy Phạm Văn Diêu và thầy Nguyễn Lộc, hai người đồng hương Quảng
Ngãi, đều là chuyên gia về Nguyễn Du và Truyện Kiều, lần đầu gặp nhau chuyện
trò tâm đắc về nghiên cứu văn học cổ điển ở hai miền. Khoa Ngữ Văn của chúng
tôi từ đó là nơi quy tụ những thầy giáo muốn tìm một chỗ bình yên để làm khoa học:
Nguyễn Văn Trung, Bửu Cầm, Phạm Hữu Lai, Trần Trọng San, Lưu Khôn, Nguyễn Tri
Tài, Nguyễn Khuê… Những cuốn sách có thể chịu cảnh im lìm bám bụi trong phòng đọc
hạn chế, nhưng người làm khoa học thì phải vượt qua hoàn cảnh, không để mình
bám bụi, và rồi những cuốn sách mới lại tiếp tục ra đời.
Từ ngày thành lập Đại học Văn Khoa Sài Gòn (01-3-1957) đến nay đã 60 năm. Những
thế hệ xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ngày nay không quên
quá khứ, vì đó là một phần lịch sử của mình. Tôi thầm nghĩ, một may mắn của đời
mình là được chứng kiến gần ba phần tư thời gian lịch sử đó của ngôi trường, từ
thời sinh viên đến khi sắp về hưu, gắn bó với từng phòng học, từng dãy hành
lang, thư viện và những khuôn mặt lúc cởi mở lạc quan, khi đăm chiêu sầu não,
nhưng luôn ấp ủ những hoài bão khoa học.
Vài năm nữa ngôi trường sẽ chuyển hẳn ra ngoại thành với một cơ ngơi khang
trang, bề thế; người đi xa về có thể không tìm ra nơi lưu giữ kỷ niệm học đường.
Những người đã qua, những người còn lại và những người sẽ tới đâu thể nào có một
lần hội ngộ cho tất cả. Qua trang viết này, chỉ mong gửi gắm một nỗi niềm chung
mà từ những góc trời riêng rẽ, chúng ta có thể sẻ chia về những ngày tháng
cũ.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét