Nhà thơ Hoàng Quý (HQ) nay đã ngót 70,
nhưng đến gần tuổi trung niên anh mới làm thơ. Dù trễ, nhưng thơ anh cứ băng
băng lao nhanh về phía trước. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay,
trong 20 năm, anh cho ra đời nhiều tập thơ: Giấc
Phì Nhiêu (NXB Văn Học, 1996), Đi Bên
Mùa Là Rụng (NXB Văn Học, 2000), Ngang
Qua Cánh Đồng (NXB Hội Nhà Văn,
2002; tái bản, 2004), Giả Trang
(NXB Văn Học, 2007)… cùng nhiều trường ca : Đối
thoại trắng (2004), Những ngấn
bùn trên mũi chân Tổ quốc (2011)…
và nhiều Giải thưởng văn học có giá trị.(*)
… Thực ra, “văn
kỳ thanh” từ lâu nhưng tôi mới “kiến
kỳ hình” Hoàng Quý sau nầy, khi
chuyển sinh hoạt từ Hội VHNT Đồng Nai về
Hội VHNT BR-VT (anh là hội viên Hội Nhà văn VN, sống tại Vũng Tàu), nhưng rất
quý trọng anh bởi cái tâm công dân, và cái tài
thơ ca của anh. Theo tôi, thơ anh ở cấp độ và xứng tầm thi sĩ, và anh là một
trong những gương mặt đáng nể trọng của thi ca Việt Nam đương đại, bởi thơ anh có một phong cách (style) riêng, độc đáo, mới lạ, “không giống ai” cả về nội dung trữ
tình lẫn thi pháp - nghệ thuật thơ ca.
Về nội dung trữ tình, thơ anh hòa quyện giữa
một cái tôi trữ tình cá nhân ngang tàng, phóng khoáng, cháy bỏng mà nhân hậu,
nhạy cảm với một cái tôi trữ tình công dân yêu thương mặn nồng, hữu trách với
Tổ Quốc, Nhân Dân. Hai cái tôi trữ tình nầy được biểu hiện bằng một giọng thơ
riêng, lạ, một tình cảm nồng nàn, say đắm cùng
những liên tưởng bay bổng, bất ngờ rất Hoàng Quý. Thi sĩ họ Hoàng có những câu thơ, bài thơ găm sâu về thân
phận con người, nhân dân làm người đọc rạo rực, bồi hồi trăn trở và những câu
thơ, bài thơ lắng sâu về Tổ quốc đất nước làm xúc động, đồng điệu, khơi dậy,
bừng lên tình yêu đất nước quê hương kín sâu ở mỗi người:
“Nhân
dân tôi
Nhân
dân cô đơn
Nhân
dân khiêm cung
Kham
nhẫn và dịu dàng
Người
là nước mà luôn thiếu khát
Người
như lúa khắp ruộng nương nước Việt
Những
hạt lúa dại vụng
Ấm và
xót
Ngoi
trên nắng
Dạt
trên nước
Xác
cháy trên tay chai
Xướp
ráp tận ruột
Lấm
láp và tinh tươm
Thơm
tho sen súng
Giấc
mê mẩn người
Thảng
như ca dao
Xum xuê
như cổ tích”
(Trích Trường ca: Đối thoại trắng)
“Nếu
bạn hỏi Đất Nước tôi bao tuổi
Xin
hãy đếm những ngấn bùn châu thổ quê tôi
Nếu
bạn hỏi về tầng sâu lịch sử
Xin
đếm những ngấn bùn bồi đắp nước non tôi”
(Trích
Trường ca: Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc)
Đề từ cho tập thơ “Ngang Qua Cánh Đồng”, anh viết “Cái
hạt thơ anh gieo, tôi gieo với biết bao khó nhọc có thể sẽ nên cây mà cũng có
thể thui chột như chưa từng hiện hữu…”. Hạt thơ… gieo với biết bao khó
nhọc. Vâng, sáng tác thơ là
một lao động sáng tạo đặc thù đầy cá tính trong cô đơn và tân khổ của nhà thơ.
Thơ là niềm vui, là nỗi buồn, là vết đau, là cơn co giật, là phút thăng hoa, là
hoài bão khát vọng, là mồ hôi, nước mắt, kể cả là tim óc, máu thịt (đúng cả
nghĩa đen và nghĩa bóng của từ “tâm
huyết”) của nhà thơ và của nhân dân đã sản sinh ra
mình (“Nhân dân sản sinh ra nhà thơ để nói hộ nhân dân những điều mà nhân
dân không nói được” - Gamzatôp)... Với phong thái tao nhã nhưng phong thế lại vật vã, với tấm lòng trong trẻo, một thái
độ ứng xử nhất quán, thẳng thắn, rạch ròi nhưng luôn luôn đằm thắm,
vị tha và nhân hậu trước trùng vây tối sáng cuộc người, bằng tài
năng và nghiệm sống của chính mình thơ của họ Hoàng luôn luôn gây
những bất ngờ, dào dạt cảm xúc, nhiều khi khác thường, những rung động mãnh liệt với thi hình, thi
ảnh, ngôn ngữ, hình tượng thơ độc đáo, khác lạ, trí huệ…:
“Như
một cuộc trường chinh vĩ đại
Những
ngấn bùn tụ hội ở Giao Châu
Những
ngấn bùn thăm thẳm
Rất
xưa và rất lâu
Những
ngấn bùn bất khuất
Đắp
bồi từ đớn đau
Những
ngấn bùn kiêu hãnh
Không
bao giờ cúi đầu”
(Trích Trường ca: Những ngấn bùn
trên mũi chân Tổ quốc)
“… Ai là bạn
Hãy
đền với chúng tôi xoải chân trần trên cát
Lắng
tiếng trở mình thao thức phù sa
Nghe
đất thở dưới tán rừng châu thổ
Sưởi
làn hương thắp Tết Ộng Bà
Xin
bạn cứ ruổi rong thỏa thích
Suốt
vòng cung đầy nắng nước non tôi
Cùng
vỗ chiêng, cồng
Như vỗ
những mặt trời nho nhỏ
Sẽ
gặp đàn chim cổ tích bay ra
Bạn
thử ướm bàn chân tõe ngón
Những
bước bùn, bước mẹ, bước em tôi
Bạn
sẽ hiểu vết bùn như máu đọng
Trên
vai trần trên tóc khét cha tôi”
(Trích Trường ca: Những
ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc)
Ngôn từ trong thơ Hoàng Quý lạ lẫm, táo bạo,
tưoi rói, đắc địa, biến ảo, nhiều khi lẫm liệt, đặc biệt rất nhiều từ “lệch chuẩn” làm người đọc vừa sửng sốt,
vừa thú vị. “Lệch
chuẩn” nghĩa là vừa giống mọi người (chuẩn),
vừa khác mọi người (lệch). “Giống” tức là theo chuẩn mực chung về sử
dụng ngôn ngữ để mọi người hiểu được. “Khác”
tức là phải có cái mới, cái lạ mới thành thơ để mọi người thích. Chẳng hạn
Hoàng Quý viết: “Sóng rất ênh
uôm”,“nước mắt phì nhiêu”, “cười hoang vu”, “Đuềnh đoàng nón thúng”, “Nụ
thắp xanh xao”, “Ướp đêm biên tái”, “Chiều như mắt biếc”…
Xin dừng lại ở
hình ảnh “cười hoang vu” trong
câu thơ “Chớ cười hoang vu như
thế nữa”(Thôi em về đi). Hoang vu là nói về nét hoang liêu, vắng
vẻ của một vùng đất, ở đây anh dùng để
chỉ nụ cười của cô gái: cười hoang vu
là nụ cười trong trắng, vô tư, ngây thơ , hồn nhiên và…dại khờ. Anh lắp ghép
những từ ngữ cũ kỹ để tạo thành từ ngữ mới mẻ, lạ lùng, có “hồn chữ quẫy
cựa”, có sức biểu nghĩa phong phú, sức biểu cảm lắng sâu, thi hình biến ảo,
thi ảnh bất ngờ…
Tôi đã đọc trên
300 bài thơ viết trong chừng 20 năm của Hoàng Quý. Mỗi bài là một thi
phẩm đúng nghĩa. Tiếng thơ vạm vỡ, tình thơ cô nén, mạch ngầm gợi
nghĩ, giọng thơ sang trọng, ngôn ngữ trong trẻo, đa thanh, biến ảo, rất
nhiều ma lực, tứ thơ vững chãi.
Ai cũng biết tứ thơ là một yếu tố không thể thiếu
của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại. Tứ
thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên có nhiều cách
diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu như là một phương thức để tổ chức liên kết
các ý
trong bài thơ và hệ thống các ý đó với
bức tranh tâm trạng - tình của nhà thơ và biểu hiện
chúng bằng yếu tố ngôn ngữ - từ. Cả ba yếu tố đó - tình, từ, ý -
thông qua phương thức tứ, tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ –
tác phẩm. Như thế, chất trí tuệ, tình cảm- rung động, năng lực hư cấu
văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng
tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”. Chính tứ thơ làm cho văn bản trở
thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại. Vì vậy, tứ
được coi như xương cốt của bài thơ và là tiêu chí bậc nhất
để phân biệt Thơ và “cái giống thơ” nhưng “không phải thơ” như vè, văn vần, khẩu
hiệu minh họa, tuyên truyền cổ động… hoặc bài “ráp vần, xếp chữ” của nhiều
người “chơi thơ” hiên nay mà thôi.
Mỗi bài thơ của
Hoàng Quý đều dệt kết đan cài và hội tụ quanh tứ với bút pháp nội tĩnh ngoại động (hoặc ngược lại) hài
hòa, tinh tế, nhuần Việt, đầy sinh khí, huyền ảo (nhiều khi uyên áo,
ảo diệu, mộng mị) giữa tình, từ, ý trong toàn bài. Có lẽ chính “tứ” tạo nên giọng điệu rất
riêng, dữ dội mà không chói gắt, quyết liệt mà mà vẫn ấm nồng,
sáng giá, cùng nhịp điệu, nhạc điệu khoát hoạt ẩn trong thơ tạo nên dư
ba. Cấu trúc sáng tạo, khác thường riêng anh có thể biến những câu
không vần, ngắn dài không đều nhau, và, những bài thơ văn xuôi của anh hóa
thành THƠ và là thơ hay. Bài thơ văn xuôi “Giấc Phì Nhiêu” trong
tập thơ cùng tên của họ Hoàng là một minh họa tiêu biểu:
"Rất
nhiều khi ta thảng thốt mơ giấc phì nhiêu của đời người
em đâm đuống, em trỗ ống, ta
đánh cồng và ca hát khúc ca
của Mường Người…"
Xin
trích lại đánh giá của cố thi sĩ - nhà phê bình Trịnh Thanh Sơn về
Hoàng Quý và Thơ Hoàng Quý thay cho lời kết: “Hoàng Quý là một thi sĩ tài năng bẩm sinh, giọng thơ rất riêng
đầy ma lực và khác thường, một giọng thơ độc đáo, một tâm tưởng độc
đáo và thi pháp độc đáo. Thơ của nhà thơ tài năng và lãng tử này
rồi sẽ còn phải bàn đến vào lúc những giá trị thật của thi ca
được định giá sòng phẳng. Hoàng Quý là nhà thơ luôn mang nghĩa cử
của một thi sĩ đích thực trong cái không gian sống đã chen chúc nhiều
tệ hại”.
Lê Thiên Minh Khoa
(*): Thơ Hoàng Quý được trao tặng các giải thưởng: Giải Nhất của Ủy
ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2003 cho tập thơ
“Ngang qua cánh đồng”; Giải Nhì 50 năm Văn học Biên phòng, 2008; Giải Ba
cuộc thi lớn “Thơ về Hà Nội – Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội,
2010)… Toàn bộ tiền thưởng của các giải thưởng Hoàng Quý đều hiến tặng: Hội Nạn nhân chất độc da
cam Đi-ô-xin Việt Nam, Quỹ Mái ấm người nghèo biên giới - hải đảo và
Trường học sinh khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu quận Hai Bà Trưng - Hà
Nội (LTMK).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét