Trận bão vừa đi qua,
bầu trời bỗng trở nên phong quang, không còn một gợn mây. Đất trời giông tố, mưa
gió ngả nghiêng của mấy hôm trước nay trở thành yên tĩnh đến nhẹ nhàng trên cái
nền trời cao vút, trong xanh cùng những ánh nắng vàng nhạt đang trải ra mênh mông,
vô tận. Cái nền trời ấy thi thoảng lại được điểm xuyết bởi từng làn gió dịu nhẹ
thoảng qua một cách đủng đỉnh trên mặt hồ tạo thành sóng gợn lăn tăn, phá tan
cái mặt gương vốn đang phẳng lặng. Cái làn gió ấy cũng đã làm cho rặng liễu bên
hồ phải khe khẽ rung lên, đong đưa những bức rèm xanh biếc khiến cho mấy chú
chim non đang đậu trên cây phải giật mình chấp chới bay lên. Cứ thế, màu xanh
của da trời, cái dịu dàng, nhẹ nhàng của từng ngọn gió thoảng trên hồ nước bao
la và những mành tơ liễu mềm mại, thướt tha đong đưa bên hồ như thể đang cùng
nhau hợp sức tấu lên những điệu khúc êm ái, du dương, ngọt ngào để mở lối đưa đất
trời vào Thu.
Thu sang đất trời
không còn chói chang nắng gắt, những cơn mưa chợt đến chợt đi cùng sấm rền chớp
giật cũng thưa dần để nhường chỗ cho những tia nắng vàng ươm như những sợi tơ
mỏng mảnh nhè nhẹ giăng mắc, hong phơi dưới tán trời cao xanh ngắt mấy tầng.
Dường như cái nắng của mùa hạ đã nung vàng những chiếc lá trên các tán cành của
đôi hàng cổ thụ dọc bên những con đường, trên từng góc phố cho nên chỉ một cơn
gió thoảng cũng đủ làm muôn lá trên cây thi nhau về cội. Nhìn những chiếc lá chao
nghiêng, xoay tròn theo làn gió giao mùa ta cứ ngỡ như nàng thiếu nữ mùa thu
lộng lẫy sắc vàng đang say sưa trong một điệu valse trên phố, khiến cho mặt đường
cũng trở nên sinh động bởi một bức tranh khảm lá vàng rơi làm cho bao bước chân
phải ngập ngừng, xao xuyến… Trái lại, rặng liễu bên hồ lá vẫn tốt xanh, chẳng
bị vàng rơi. Nghe như gió mưa và cả cái nắng, cái nóng của những tháng ngày mùa
hạ chẳng thể nào khuất phục hay thiêu cháy được mấy hàng tơ mành bé xíu, mảnh
mai. Giữa muôn cây lá rụng, vàng tươi phơi đầy trên mặt phố thì những hàng liễu
rủ, đêm ngày vẫn nghiêng nghiêng soi bóng xuống mặt nước hồ trong veo. Cũng có
lúc, liễu bỗng chợt thấy mình trở nên trơ trọi, cô đơn giữa muôn loài cây đang
mùa thay lá. Hẳn thế mà dáng liễu mùa thu có vẻ cũng như đượm buồn giữa mênh
mang đất trời, sóng nước. Nhưng đó chẳng phải là nỗi buồn tự nó mà là cái buồn
của mênh mang đất trời lan chuyền sang liễu. Chẳng biết có phải vì vậy mà khi
xưa ông hoàng tình ái Xuân Diệu ngắm nhìn những cây liễu vào thu đã vội thốt
lên rằng: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàng
hàng” (Đây mùa thu tới). Và, không chỉ có Xuân Diệu, nhà thơ Thế Lữ cũng lần đã
ví von: “Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền/ Êm như hơi gió thoảng cung tiên/
Cao như thông vút, buồn như liễu/ Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên” (Tiếng gọi
bên sông). Và lí giải nỗi buồn của liễu, ở bên trời Âu, anh em nhà Grim đã có
lần kể: Trong lúc bị đóng đinh, chúa cứu thế Jesus Christus bị đánh bằng một chiếc
roi bẻ từ một cây liễu. Rồi từ đó cây liễu cứ buồn bã, rủ cành xuống đất và
chẳng bao giờ vươn lên trời cao được nữa.
Bất chợt, chiều nay
ngắm nhìn những thân liễu sần sùi, nứt nẻ, vặn vẹo nghiêng nghiêng bên hồ;
buông lơi, thõng thượt những cành lá gầy guộc, mảnh mai, xanh biếc đang nhè nhẹ
đong đưa theo gió ta chợt như thoáng thấy bóng hình của một nàng thiếu nữ đang
cúi đầu, xoã tóc làm duyên. Từng chùm liễu xanh xanh, mềm mại rủ xuống nhìn sao
giống như những lọn tóc của cô nàng vừa mới tết xong đang buông xoã, soi xuống
mặt hồ, mặc cho gió đưa. Ngắm nhìn cảnh ấy, có không ít người bảo rằng mùa thu
liễu đẹp. Có lẽ, tiết thu sáng trong, nhất là khi cuối thu đầu đông khí trời se
lạnh, ngắm nhìn những nhành lá mượt mà, điệu đà nghiêng mình soi bóng xuống mặt
nước hồ trong xanh vời vợi mà người ta bảo vậy. Quả đúng là thế, trời thu, nước
hồ mùa thu như thể hoà vào trong sắc lá và dáng hình của liễu để tôn nâng cái
vẻ dịu dàng, thướt tha nhưng cũng không kém phần yểu điệu, quí phái. Mùa thu
rất đẹp. Liễu mùa thu cũng rất đẹp. Nhưng không phải vì yêu mùa thu, yêu liễu rủ
mà cao hứng bảo rằng khi mùa thu về liễu thời đẹp nhất.
Thực ra, liễu đẹp nhất
phải là ở mùa xuân. Khi mùa xuân về, vẻ đẹp của cây liễu được phát lộ rực rỡ.
Sang xuân, cái hanh khô rét mướt khắc nghiệt của mùa đông lạnh giá đã qua đi,
khí trời ấm áp trở về, những cơm mưa bụi lây phây như thể làm hồi sinh mọi vật.
Khi ấy rặng liễu bên hồ lá như mướt xanh hơn, áng tóc mảnh mai rủ xuống lại được
cài thêm những chùm hoa đỏ duyên dáng đầy quyến rũ. Từng cánh hoa mềm yếu, mỏng
mảnh, thắm đỏ kết thành những chùm nhìn tựa như đuôi chồn, đuôi sóc xoè ra, cài
trên mái tóc biếc xanh buông hờ, thả xuống mặt nước, đẹp đến nao lòng. Chẳng
biết, có phải cái vẻ đẹp mướt xanh, dịu dàng, thướt tha, mảnh mai của cái áng
tóc mùa xuân ấy mà hình ảnh cây liễu đã hớp hồn, làm mê mẩn không ít thi nhân
từ bao đời nay. Xưa kia, đời nhà đời Đường bên nước Trung Hoa, Vương Xương Linh
nhìn rặng liễu xanh đang tràn trề nhựa sống mà thấy tiếc thương cho tuổi xuân
thì của người chinh phụ: “Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc/ Hối giao phu tế
mịch phong hầu” (Trần Trọng San dịch: Chợt trông đường liễu xanh màu/ Xui ai
tìm cái phong hầu mà chi - “Khuê oán”). Sau này, trong “Truyện Kiều” cụ Nguyễn
Du cũng đã sử dụng hình ảnh cây liễu để nói về vẻ đẹp của cảnh sắc trời xuân,
nơi Kim Trọng và Thuý Kiều gặp gỡ và mở đầu cho một mối tình đẹp đẽ nhưng cũng đầy
oan nghiệt: “Dưới cầu nước chảy trong veo/ Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt
tha”. Rồi lại chợt nhớ, có lần đứng bên bờ Trường Giang, ngắm màu hoa sắc liễu,
không cầm lòng được hoàng tử Đoàn Dự đã phải thốt lên: “Trường Giang từng đợt
sóng cồn/Ngẩn ngơ bờ liễu lơ thơ mấy hàng/ Đường về khuất nẻo thôn trang/ Phất
phơ hoa liễu tà tà ánh dương” (Theo “Thiên long Bát bộ” của Kim Dung). Cái vẻ
đẹp yểu điệu của liễu, sau này, hồi Thơ Mới, chàng thi sĩ tài hoa bất hạnh Hàn
Mặc Tử nỗi lần ngắm nhìn là lại liên tưởng đến một nàng thiếu nữ thướt tha đứng
đợi tình nhân dưới đêm trăng vàng đầy mơ mộng: “Trăng nằm sõng soãi trên cành
liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn). Ngắm liễu rủ trong những đêm trăng
vàng óng ả soi bóng đã đẹp. Nhưng cảnh ấy còn đẹp hơn khi có những cơn gió đông
(gió mùa xuân) thổi về làm cho những áng tóc mướt xanh, mềm mại xôn xao, xáo
động. Gió Đông càng mạnh, mái tóc người thiếu nữ càng chao đảo, nhảy múa rung
rinh khiến mặt hồ cũng phải ngả nghiêng như đêm vũ hội. Chẳng thế mà Nguyễn Du
trên đường đi sứ qua Hồ Nam (Trung Hoa) đã có những vần thơ tả liễu nhảy múa
rất đẹp: “Duyên thành dương liễu bất thăng nha/ Diệp diệp ti ti vị cập thu/ Hảo
hướng phong tiền khán dao duệ/ Tối điên cuồng xứ tuyệt phong lưu” (Dịch thơ:
“Dương liễu bên thành mềm xiết bao/ Thướt tha tơ lá lúc chưa thu/ Lần đưa trước
gió xem đường múa/ Đưa mạnh bao nhiêu đẹp bấy nhiêu” - Dẫn theo Hoài Thanh,
trong “Chuyện thơ”).
Vậy đấy, có đúng rặng
liễu mùa xuân mới là rặng liễu đẹp nhất? Cái vẻ đẹp ấy chẳng dễ gì qua được
những con mắt xanh của thi nhân từ bao đời nay. Và thế thì liễu đâu có phải là
buồn. Phải chăng mấy nhà Thơ Mới của ta lâm vào cái cảnh “Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ” nên đã gửi vào những cành liễu rủ một nỗi buồn man mác, tang
thương khiến cho người đời truyền nhau về một nỗi ám ảnh. Người ta bảo nhau, liễu
buồn nên trồng liễu trong nhà thì sẽ gặp nhiều buồn phiền, xui xẻo ...; rồi
nữa, liễu thuộc về phần âm nên dễ dẫn dụ âm khí về nhà... Thực ra đâu có phải
vậy. Hàm oan của liễu tôi nhớ đã được Hoài Thanh hóa giải. Hơn thế nữa, có lần
tôi đã được nghe người ta bảo: cây liễu được coi
là biểu tượng của hạnh phúc, của tuổi thanh xuân. Và tên Liễu cũng là tên của
một vì sao trong nhị thập bát tú. Nghẻ kể, từ thời cổ đại người ta đã trồng
liễu trong nhà hoặc treo cành liễu bên ngoài ô cửa để trừ tà rất hiệu nghiệm. Lạ
thay, thế mà giờ đây cây liễu vẫn bị hàm oan. Liễu chỉ được trồng bên hồ và
những nơi công cộng. Thôi thì cũng chẳng sao, liễu chẳng được sánh vai cùng cây
tùng, cây bách trong các gia viên để tạo thành cặp trai tài gái sắc yểu điệu
đào tơ thì cũng được mặc sức rong chơi bên nhưng bờ hồ gió lộng, đêm ngày thỏa
sức giỡn nước vờn trăng làm cho điêu đứng mê mẩn biết bao cặp mắt tình si: “Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều/ Ðể nghe dưới đáy nước hò reo/ Ðể nghe tơ liễu rung trong gió/ Và để xem trời giải nghĩa yêu” (Hàn Mặc Tử - Đà Lạt trăng mờ) hay lưu luyến gọi về trong nỗi nhớ của
bao người đi xa: “Em ơi! Hà Nội - phố/
Ta còn em chiếc xe hoa/ Qua hàng liễu rủ/ Cánh tay trần trên gác cao/ Mở cửa/
Mùa xuân trong khung/ Đường phố dài/ Chi chít chồi sinh/”; “Ta
còn em tiếng trống tan trường/ Màu thanh thiên lẫn trong liễu rủ” (Phan Vũ – Em ơi! Hà Nội phố)
Thế đấy, tự ngàn xưa
cho đến bây giờ, liễu ở bên đời và gây tâm tình thương nhớ cho biết bao người.
Người ta yêu liễu cũng lắm và người ta hờn liễu cũng nhiều. Người yêu liễu thì
nâng niu, thương luyến còn người hờn liễu thì buông lời thị phi. Nhưng chẳng
sao. Liễu vẫn là liễu. Liễu chẳng thích sự ồn ào. Liễu tìm đến bên hồ man mác. Đêm
ngày lặng lẽ xoã làn tóc mây soi bóng xuống mặt nước hồ xanh. Cứ thế, liễu đẹp
trong nắng và đẹp cả khi trời mưa gió. Giữa trưa hè nắng chảy làn tóc mây của
liễu được mặt hồ phản chiếu muôn ngàn những tia nắng lấp loá khiến những cành
liễu đang rũ xoã nhìn tựa như những sợi thuỷ tinh. Trong gió trong mưa, thân
cành của liễu như thể mềm mại hơn để nghiêng mình đong đưa duyên dáng trên mặt
nước hồ bao la. Những giọt mưa rơi đậu trên lá liễu đọng thành từng giọt nhìn
tựa như những giọt lệ vương trên những bờ mi. Và áng tóc mây của liễu xoã xuống
mặt nước tựa như muôn cánh tay đang xoa, đang cào sóng nước mặt hồ. Cứ thế,
lặng lẽ mà liễu thả hồn gây thương gây nhớ! Liễu đứng bên hồ và cũng đã trở
thành chứng nhân của biết bao cuộc tình. Dưới
làn tóc mây, liễu đã dâng chùm hoa đỏ thắm cho các chàng trai nâng niu tặng các
cô nàng. Và cũng có khi nhưng cánh hoa mong manh lại được trao truyền ấp iu
trong biết bao trang sổ như thể để lưu giữ một thoáng xuân thì. Hình ảnh của
liễu còn được đi sâu vào trong tâm thức của biết bao người. Người ta thường
dùng hình ảnh liễu yếu đào tơ để gọi những người con gái đẹp, rồi nói chân mày
lá liễu để chỉ nhưng cặp lông mày thanh mảnh cong mềm quyến rũ. Và cũng có một
thời, mỗi khi đi xa người ta lại thường hay bẻ một cành liễu nhỏ để trao tặng
cho nhau như thể để tỏ tình lưu luyến. Chẳng thế, cụ Tiên Điền khi tả cuộc chia
tay Kim Kiều đã viết: “Khi về hỏi liễu Chương Đài/ Cành dương đã bẻ cho người
chuyên tay”.
Bây
giờ trong tiết đầu thu, tóc liễu la đà in hình trên mặt nước. Trời kia cao xanh muôn thủa chợt như đang được thu
về trên làn tóc biếc để nhuộm xanh nước hồ. Bất chợt, thầm hỏi, có ai đó còn nhớ
cái thời đã qua:
- “Bấy
lâu gió dập mưa vùi
Liễu
xanh con mắt đào tươi má hồng”
- “Cành đào lá liễu phất phơ
Lấy
ai thì lấy, đợi chờ nhau chi”.
Và rồi dưới cái gốc tơ
liễu ngoài kia có ai còn ước: “Ta sẽ là vợ chồng/ Sẽ yêu nhau mãi mãi/ Sẽ se
sợi chỉ hồng/ Sẽ hát câu ân ái/ Anh và em sẽ sống/ Trong một mái nhà tranh/ Lấy
trúc thưa làm cổng/ Lấy tơ liễu làm mành ...” (Hôn nhau một lần cuối - Nguyễn
Bính).
Thế mới hay, thu kia cảnh ấy luống vương bao tình!
Giang Hiền Sơn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét