|
Bìa sách "9 Thập Kỷ Tân Nhạc Việt Nam"
Lê Thiên Minh Khoa |
Là
dòng nhạc trữ
tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ sau 1954 với các bài hát
được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng
của boléro, rumba, ballade, slow rock…, phổ biến nhất là bolero được hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc
trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm của một con
người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình
dân…
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của “nhạc vàng” là:
Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường
có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc: Hàn
Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng
Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê
Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…
Ở
miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi người ta dùng từ
“nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình dân” để chỉ dòng
nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến từ đầu thập niên 1950 đã
du nhập khái niệm "nhạc vàng" từ Trung Hoa dịch từ
"huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng
lúc đó đang phổ biến ở Thượng Hải.
Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê Trọng Nguyễn,
Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều thu ấy từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh với hai
bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong hơn 2 thập niên, ông
viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu thích như: Thành phố buồn,
Nhạc rừng khuya, Nắng đẹp
miền Nam, Bài Tango cho em, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết theo
mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình mẹ,
Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói, Tình
vẫn chưa yên, Tình thiên thu…
Còn
Lê Trọng Nguyễn
thành công ngay từ ca khúc bolero đầu tiên là Nắng chiều cũng viết năm
1952, là một bản nhạc boléro “kinh điển”, được viết với
cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của
dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác
phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình
ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm…
thường được xếp vào dòng nhạc tình khúc.
Trúc
Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu tay là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết năm 1957, kế đến là Chiều
làng em (1958) và Đò chiều (1959)... đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi
tiếng nhất của ông là Tàu đêm năm cũ
viết vào đầu thập niên 1960, Sau đó, là khoảng 70 ca khúc được phổ
biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phố, Buồn
trong kỷ niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở
miền xa, Đêm gác trọ, Đêm tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt
Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều cao nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng
cũ…
Còn Hoàng Thi Thơ, người được xem là “khơi dòng Việt hóa bolero”, sau Gạo trắng trăng thanh (1954), tiếp tục viết nhiều tình ca quê
hương nổi tiếng như Đường xưa lối cũ (1955), Duyên quê, Ai nhớ chăng ai, Trăng rụng xuống cầu (1956)… Sau đó, dưới nhiều
bút danh như: Hoàng Thi Thơ, Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê, Triệu Phong, Tố Tâm…, ông
viết rất nhiều bản nhạc vàng và tình khúc đậm chất dân ca rất được phổ biến và ưa
chuộng.
Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền Nam, Mong ngày anh về,
Vui khúc tương phùng... Năm
1955, ông tái lập ban nhạc Lửa Hồng và sau đó cho ra mắt ban Nhạc
Vàng thuộc đài phát thanh rồi
đài truyền hình Sài Gòn để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như Anh Bằng lập ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc
Chánh lập ra hãng Shotguns để phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh
danh là nhạc vàng - với những tình cảm
dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng
lại rất cần thiết cho vài
tầng lớp xã hội trong thời chiến".
Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này là: Trần Thiện
Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài Linh, Hoài An, Phạm Thế Mỹ, Mạnh Phát, Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng, Hàn Châu, Y Vân, Vinh Sử, Thanh Sơn, Anh Việt Thu, Anh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút
hiệu ghép của Trần Trịnh, Lâm Đệ,
Nhật Ngân), v.v...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao
Linh, Hoàng Oanh, Anh
Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung Chỉnh, Giang Tử, Minh Hiếu, Trúc Mai, Hà Thanh, Ngọc Minh, Phương Dung, Anh Khoa, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Băng Châu, Thái Châu, Nhật Trường (tức NS Trần Thiện
Thanh)...
Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với
cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng
nhất” về tác giả.
Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp
vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song Ngọc, Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với
tình khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của
tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được
yêu thích: Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu
(1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng
cùng Nhật Ngân trong bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về…
Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở các giai đoạn
âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công chúng bình dân
nhiều thế hệ.
(Kỳ tới: Nhạc trẻ 1960-1975 ở Miền Nam).
Lê Thiên Minh Khoa
(Trích trong
cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM” -
nghiên
cứu & nhận định của Lê Thiên Minh Khoa - sắp xuất bản,
2018).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét