(Đọc tiểu thuyết “Hạc hồng” của Lê Hoài Nam, NXB Hội Nhà văn, tháng 1
năm 2019)
Với bối cảnh một vùng
quê đồng bằng Bắc Bộ nơi có ngôi làng Ngò vốn dĩ đẹp xinh, êm đềm, có dòng sông
Vạm êm đềm trôi trước cửa làng, có cánh đồng thơm ngát hương lúa nếp thầu dầu
và lúa tám xoan, có ngôi trường trung học phổ thông ngự bên ngôi đền thánh Thiên
Chúa giáo, có phòng khám Hoa Huệ giống như một bệnh viện thu nhỏ.
Nhân vật
chính của tiểu thuyết là Phó Giám đốc sở Lương Hải Hựu; ông xuất hiện trong
tiểu thuyết bắt đầu từ lúc cầm quyết định về hưu khi ông năm mươi bảy tuổi, về
hưu trước tuổi bởi mệt mỏi nhàm chán với những trò mua quan bán tước, lợi ích
nhóm, giá băng trong các mối quan hệ. Về hưu là lúc Hựu “lắng nghe cơ thể mình
lên tiếng”. Ông được con gái đưa vào phòng khám Hoa Huệ do cha xứ Dương Khắc
Thiệu đỡ đầu, tại đây các bác sĩ, ý tá (đồng thời cũng là những nữ tu) đã phát
hiện ông bị tiểu đường, họ tận tình chữa bệnh cho ông theo tinh thần nhân đạo, theo lời răn của
Chúa. Trong thời gian tĩnh tâm chữa bệnh ở phòng khám, ông luôn xúc động về
những ân tình, nhân ái của những thầy thuốc, Lương Hải Hựu có những cái cớ để
ngẫm nghĩ, nhớ lại quá khứ của đời mình với những việc đã làm, về cơ bản ông
thấy hài lòng với sự cống hiến của mình nhưng ông lại cũng nhận ra những năm
tháng vận hành trong cái guồng máy quyền lực, những giá trị nhân bản trong ông
cũng vơi cạn ít nhiều, đúng như một triết gia đã nói “Quyền lực ăn mòn nhân bản”.
Và những người đánh thức, khơi dậy những giá trị nhân bản trong ông lại là
những con người sống rất gần ông mà trong thời gian còn đương chức ông chẳng
mấy khi để ý đến họ, như linh mục Dương Khắc Thiệu, xơ Hòa, xơ Lệ, Lương, cán
bộ hội phụ nữ xã và ngay cả Lương Hải An, cô phó hiệu trưởng trường THPT, con
gái ông. Họ chính là những nhân tố làm tươi mới cuộc đời Hựu, để từ đó ông như
bước sang một trang đời khác.
Tác giả cũng xây dựng
rất thành công những nhân vật đối lập. Hoàng Ngọc Tốt – một vị chức sắc tham lam,
đa mưu túc kế,miệng nói một đằng hành động một nẻo, nham hiểm, những việc hắn
làm trái với luân thường đạo lý, trái với thuần phong mĩ tục. Khi biết mình sắp
được đề bạt lên một chức vụ cao hơn, y kéo bè kết cánh, tạo thế lực để đưa người
em trai dốt nát từ huyện lên ngồi vào ghế Giám đốc Sở thế chỗ của y, “đưa hàng
tá con cháu ngồi vào những chiếc ghế béo bở trong ngành”. Hoàng Ngọc Tốt bỏ
tiền “đầu tư” cho Phương Điền một cỗ mấy xử lý rác thải nhưng thực chất là y
cho vayvới lãi suất cao, không những thế y còn thể hiện sự ban ơn bằng cách bỏ
tiền xây cho làng Ngò xã Phương Điền một ngôi miếu Thành Hoàng. Y vừa khéo léo
vừa trắng trợn vận động lãnh đạo xã cắt nửa mẫu đất bờ xôi ruộng mật làm nền
xây ngôi miếu ấy; thực chất là y xây để thờ sống y. Nghía là y trở thành Thành
Hoàng của làng một cách êm ru. Loại người có tư tưởng “ngồi xổm” lên đầu nhân
dân này ngày nay không hiếm.Hay như bà Đoàn Thị Nhân Ái, một doanh nhân thành
đạt nhờ “kết thân” với những nhân vật có uy quyền, trở thành nhân vật làm từ
thiện dang tiếng, nhưng đấy chỉ là những trò diễn để được ngời khen chứ tâm địa
bà ta không hướng thiện, nói một đằng làm một nẻo. Tình tiết bà ta tiếp thu sự
“chỉ đạo” của Hoàng Ngọc Tốt, toan tính lôi kéo Hựu ký đơn khởi kiện linh mục
Dương Khắc Thiệu (kẻ gian kiện người ngay) là một hành động ghê tởm.
Tiểu thuyết có những
chương dữ dội, gay gắt, nhưng bao trùm lên hầu hết các chương trong tác phẩm là những tâm hồn hướng thiện. Lương
Hải Hựu và Dương Khắc Thiệu, hai người lính ở hai thời kỳ khác nhau (Hựu chiến
đầu ở Quảng Trị thời chống Mỹ, Thiệu chiến đấu ở Cămpuchia thời Pôn-pốt
Iêngxari) đều đã từng đối mặt với cái
chết, khi hòa bình, cho dù mỗi người đi theo một lĩnh vực khác nhau, một người
theo chủ nghĩa duy vật biện chứng vô thần, một người được đào tạo trong chủng
viện trở thành linh mục theo chủ nghĩa hữu thần, đối nghịch nhau như nước với
lửa, nhưng cả hai đều coi trọng những giá trị nhân văn cao cả nên họ đã gặp
nhau, tâm hồn của họ như nguồn nước trong lành lan tỏa trong cộng đồng. Bên
cạnh Hựu và Thiệu là xơ Hòa (bác sĩ Hòa) mà thời chiến tranh từng làm y sĩ
trong chiến trường Quảng Trị, người đã chứng kiến và trải qua những nỗi đau lớn
về thể xác lẫn, sự sang chấn lớn về tinh thần nên càng thấu hiểu và trân trọng
giá trị từng phút từng giây của cuộc sống, thâm thía giá trị thời gian một đi
không trở lại của kiếp nhân sinh. Một lương y như Hòa thật đáng ngưỡng mộ. Một
nhân vật không thể không nhắc đến là xơ Lệ - một bông hoa đẹp trong tiểu thuyết
“Hạc hồng”, nàng có tâm hồn trong sáng, thánh thiện và một tuổi trẻ nhiệt huyết
với đời, trong cái nhìn từng trải của nhân vật Hựu thì “Cô bé rất thông minh,
hiểu biết mà không ranh ma, tài năng mà không kiêu ngạo”. Còn nữa: nhân vật
Lương - Chủ tịch hội phụ nữ xã Phương Điền nghỉ hưu rồi nhưng vẫn “ăn cơm nhà,
vác tù và hàng tổng” khi mang vợt, bao tải đi vớt rác ở sông ngòi cho xóm làng,
đồng áng đỡ bị ô nhiễm. Rồi cô giáo, Phó hiệu trưởng THPT Lương Hải An trung
tín, chính trực, sâu sắc, yêu nghề, vững về kiến văn, có quan niệm sống rõ ràng,
bởi thế cô có khả năng truyền nhiệt huyết, ngọn lửa tình yêu văn chương tới đông
đảo học trò...
Tôi đặc biệt ấn tượng
ở nhân vật cha xứ cai quản đền thánh - linh mục Tadeo Dương Khắc Thiệu. Cứ ngỡ ngài
đại diện cho những ảo diệu, hư mộng, chỉ truyền đạt tới bầy chiên những gì
thuộc về tín ngưỡng, nhưng không, ngài là một linh mục tân tiến, có phông văn
hóa rất cao, cả văn hóa đạo và văn hóa đời. Ngài tôn sùng giáo lý, nhưng ngài
lại cũng sẵn sàng “điều chỉnh” giáo lý cho thích hợp với cuộc sống đương đại. Chẳng
hạn ngài cho phép các xơ trong dòng tu Mến Thánh Giá ra đồng trồng cấy để có
lương thực, thực phẩm nuôi sống đến thánh, nuôi sống nhà tế bần; ngài cho phép
xơ Lệ được cởi bỏ nghiệp tu trở về đời thường với ước nguyện nàng tìm được hạnh
phúc vì nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc lứa đôi; ngài rửa tội cho kẻ ngoại
đạo Phạm Văn Lũng từng phạm tội với đồng loại bởi trong cơm hấp hối người này
đã biết ăn năn xám hối, không những thế khi ông này mất ngài còn cho chôn cất ở nghĩa
trang Thiên Thần theo nguyện vọng của ông ta. Ngài đỡ đầu cho phòng khám Hoa
Huệ, tiếp nhận bác sĩ giỏi như xơ Hòa về làm bác sĩ trưởng, gửi các xơ khác đi
học các khóa chuyên mônđể họtrở về phòng
khám chữa bệnh cho dân chúng mà không đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên như nhiều
phòng khám tư hiện nay. Cho các xơ đi học đại học ngoại ngữ, văn chương, âm
nhạc để trở về phục vụ cho giáo xứ, nâng cao dân trí cho giáo dân nói riêng và
cộng đồng dân cư nói chung. Khí biết có nhiều người nạo phá thai, bỏ thai nhi
vào túi ni-lông ném xuống sông, trôi ra cửa bể, cha Thiệu lập hẳn một nhóm trùm
kẻ liệt chuyện nhặt vớt nhừng hài nhi xấu số, lập một nghĩa trang có tên là
Thiên Thần chôn cất. Những lời ngài giảng trong đền thánh, vẫn là Kinh Thánh
đấy, nhưng ngài đã thổi cái hồn văn học vào đấy khiến các nhân vật trở nên ấn
tượng và “lấp lánh” hơn. Lời giảng của ngài có khi giản dị nhưng có sức thuyết
phục rất cao: “Nếu anh chị em giáo dân không biết thì không nói làm gì, nhưng
khi biết mà cứ để cho những thân xác các
cháu trôi ra biển làm mồi cho cá là mắc tội gián tiếp giết người, phạm điều răn
thứ năm của Chúa Giê-su”. Trong xã hội nếu có chuyện xẩy ra làm phương hại tới
đạo đức con người, ngài đều dùng Kinh Thánh để liên hệ và răn dậy. Ngài dẫn
chững những câu nói của Chúa Giê-su mà ai nghe cũng khó quên: “Chế ngự bản thân khi có ai đó định hạ nhục
mình không có nghĩa là anh em hãy xử sự như một con người không muốn giống
những kẻ hàng ngàn năm hạ nhục đồng loại. Ta đến để gieo tình yêu thương như
gieo những hạt giống các mối quan hệ của con người và vì vậy sự giận dữ và hận
thù là những hiểm họa lớn nhất có thể phá hoại mùa gieo của ta…”.Chính vì thế,
bản thân linh mục và ngôi đền thánh Hải Hà đã khắc phục được rất nhiều việc mà
cuộc sống cộng đồng vùng quê này chưa thể hoặc không thể giải quyết được. Hay
nói cách khác, những gì là khó khăn bế tắc trong việc đời thì linh mục sẵn sàng
đứng ra chia sẻ, gánh đỡ. Điều này nhà văn ngụ ý nhắn nhủ tới độc giả rằng:
việc đạo và việc đời nếu biết nương tựa vào nhau thì chỉ có thể làm cho cuộc
sống trở nên thiên lương, nhân đạo hơn, con người trở nên Người hơn mà thôi.
Một vấn nạn nổi cộm
trong tiểu thuyết “Hạc hồng” đo là ô nhiễm môi trường. Con sông Vạm xưa thơ
mộng lắm, là một vựa cá tôm, cua rươi nuôi sống cả làng Ngò, giờ đây đã trở
thành một cái rãnh nước thải khổng lồ tràn ngập rác rến, bốc lên mùi tanh lợm,
hôi thối; cánh đồng làng xưa màu mỡ, trồng đủ loại lúa quý, giờ đây linh mục
Thiệu phải cho xây cái bể khổng lồ hứng nước mưa từ mái ngói đền thánh rồi
thiết kế đường ống dẫn nước ra tưới cho mấy mẫu lúa nếp thầu dầu, lúa tám xoan
để lúa giữ được mùi hương nguyên bản. Cái câu ngạn ngữ được sinh ra từ vùng quê
này “tháng chín bão rươi, tháng mười bão ra” chỉ còn trong quá khứ, hoài niệm.
Thương tâm, đau lòng, ám ảnh nhức nhối nhất là hình ảnh những hài nhi bị quăng
vứt trôi sông, dạt vào bãi bồi ven cửa sông Vạm. Những hài nhi bị chính người
thân hoặc những người liên đới vô trách nhiệm thẳng tay vứt bỏ. Đây là một thực
trạng báo động về cuộc sống buông thả, băng hoại đạo đức, dẫn đến nạn hút phá
thai vừa lén lút vừa công khai hiện nay. Nếu chúng ta biết về Kinh Thánh cũng
như Kinh Phật, thấm nhuần luật “nhân – quả” hẳn chúng ta có thể biết trước điều
gì sẽ xẩy ra trong mai hậu?
Nhà văn Lê Hoài Nam đã sử dụng kỹ
thuật điện ảnh vào tiểu thuyết “Hạc hồng” một cách điêu luyện, tài hoa. Đó là sự lồng ghép phân cảnh đan xen giữa quá khứ và hiện
tại, giữa chuyện đời và chuyện đạo, giữa những điều ngỡ là hư ảo, để “phủ định
của phủ định” thành điều “khẳng định”, hiển nhiên hợp lý, làm cho tiểu thuyết
hấp dẫn lôi cuốn độc giả. Nói chuyện xưa mà người ngày nay không thể không
chạnh lòng; nói chuyện nay mà khiến người ta liên tưởng đến những điều đã được
Kinh Thánh cảnh báo. Tấm gương Chúa
Giê-su và con đường chịu khổ nạn của Người để nói với người hôm nay rằng những
con đường mới mẻ để dẫn tới thành công không chỉ rải toàn hoa hồng mà còn có cả
chông gai, chướng ngại, khiến ta đau đớn, có khi mất cả mạng sống nhưng vẫn hãy
là chính mình và biết dung cảm vượt qua thách thức đó thì sẽ tới đích.
Lối dẫn chuyện của nhà
văn Lê Hoài Nam mang phong thái “đủng đỉnh”, chậm mà chắc, nhỏ nhẹ mà thấm dần,
thấm sâu như mưa bụi mùa xuân mà làm tươi tốt cây cối cỏ hoa. Ẩn tàng dưới
những câu văn nhẹ nhàng ấy là những tầng ý nghĩa. Mỗi tình tiết, chi tiết đều
chứa đựng những thông điệp nhân văn để nói với bạn đọc. Ta đọc thấy trong mỗi
trang văn có nỗi niềm trăn trở, những khát vọng nâng đỡ con người tự vượt lên
những hạn chế để sống với những giá trị đích thực của kiếp người. Ngay cả cách
đặt tên cho nhân vật có sự tương phản tác giả cũng mang dụng ý: linh mục Thiệu
trùng tên với kẻ bán nước Nguyễn Văn Thiệu, nhưng vị linh mục ở đây lại rất yêu
nước, yêu con người, yêu quê hương xứ xở. Ông giám đốc sở tên Tốt nhưng lại có
nhiều thói xấu. Bà Nhân Ái tiếng là đi làm từ thiện nhưng lại có lối ứng xử vô nhân đạo. Thì ra trong
cuộc sống bộn bề, phức tạp hôm nay, cái sự phô diễn bề ngoài có khi chỉ để che đậy
cái bản chất thực khác hẳn bên trong, nhiều khi “ngỡ là đúng mà lại không thật,
mong là thế mà kết quả không là vậy”.Cho nên việc xấu, người xấu, người tốt,
việc tốt phải được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều khía cạnh, chứ không phải ở cái
vỏ bọc hào nhoáng hay những lời nói đãi bôi bên ngoài.
Phần cuối tiểu thuyết có
tin vui kép: ngôi trường THPT Hải Hà mà Lương Hải An làm Phó hiệu trưởng được
giải nhất cuộc thi đọc tác phẩm văn học, kết quả này không thể không tính công
cho cô giáo Lương Hải An và linh mục Dương Khắc Thiệu. Trái khoáy thay, những
học sinh được giải cao lại chọn những tác phẩm mà hầu như toàn bộ hệ thống sách
giáo khoa trong nhà trường chưa bao giờ nhắc đến, thậm chí nó chưa từng xuất
hiện trong vốn kiến văn của các thầy cô giáo. Đây là một thông điệp khuyến cáo
cần phải có một công cuộc chấn hưng văn học trong nhà trường, cần phải đưa vào
chương trình những tác phẩm mang giá tri văn chương thực sư thì mới có cơ may
thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết của cả thầy và trò. Tin vui thứ hai: hình ảnh cỗ
máy xử lý rác thải ở Phương Điền đã vận
hành xuôi xẻ. Thành quả này không phải do Hoàng Ngọ Tốt đầu tư, (người dân
Phương Điền đã không chấp nhận thủ đoạn của ông quan tham này), mà là công của
linh mục Thiệu, của Hựu, của ông giám đốc ngân hàng cổ phần từng là bạn chiến
đấu của cha Thiệu.Dòng sông Vạm và những thửa ruộng ô nhiễm đang được thanh tẩy
và hình ảnh đôi chim Hạc Hồng “thanh mảnh duyên dáng” đáp xuống những thửa
ruộng lúa nếp thầu dầu và lúa tám xoan vừa gặt xong thật đáng chiêm ngưỡng. Hạc
Hồng là một loài chim thiêng,theo dân gian thì chúng bay đến đâu là mang điềm
may mắn, an lành đến đó. Một cái kết hoàn toàn hợp lý, tuy những việc làm xấu
xa của kẻ xấu chưa hoàn toàn được phanh phui trước ánh sáng, nhưng bạn đọc có
thể tin những tín hiệu vui đã đến với vùng đất này.
Trong ba năm, nhà văn
Lê Hoài Nam cho xuất bản hai cuốn tiểu thuyết; cả hai tác phẩm đều có giá trị
về tư tưởng và nghệ thuật, và đáng chú ý là mỗi tác phẩm đều mang dấu ấn nghệ
thuật riêng: “Mỹ nhân nơi đồng cỏ” là tiểu thuyết lịch sử, nhà văn chọn một
trong những thời ký bi tráng nhất, có những chuyện cam go nhưng còn nhiều khuất
lấp nhất trong lịch sử dân tộc mà khai thác. Tiểu thuyết này có mang hơi hướng
tôn giáo, nhưng là đạo Phật. Còn tôn giáo trong tiểu thuyết “Hạc hồng”, là
Thiên Chúa giáo. Vốn về Thiên Chúa giáo của nhà văn không chỉ dựa vào Kinh Thánh mà cả tuổi thơ của ông đã
tắm táp trong bầu khí quyển ấy. Ngôi trường phổ thông mà ông học thời sơ tán
chính là những ngôi nhà nguyện trong khuôn viên ngôi đền thánh thị trấn Liễu Đề
ở quê ông. Hàng ngày ông chỉ nghe những xơ trong nhà dòng tụng kinh mà ông
thuộc khá nhiều kinh. Những đoạn trích kinh Tân Ước, ông
không “bê” nguyên xi lời kinh nguyên bản vào tác phẩm mà nó đã được soi rọi bằng
cái nhìn giầu trí tưởng tượng và sáng tạo, chính vì thế mà nó giúp bạn đọc của
ngày hôm nay dễ đồng cảm và thích thú hơn trong quá trình cám thụ tác phẩm.
Hà Nội, tháng 3/ 2019
Nguyễn Thanh Huyền
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét