“Lương Châu” và “Từ”
Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ
Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương
Châu Từ là một điệu hát cổ nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu
hát cổ như: Thượng Chi Hồi, Chiến Thành Nam, Thương Tiến Tửu, Quân Mã Hoàng, Viễn
Như Kỳ, Hoàng Tước Hành, Lạc Mai Hoa, v.v... được
các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác.
Từ, nói chung, là một khúc nhạc. Có rất nhiều điệu Từ. Mỗi điệu có một từ
phổ, tác giả phải tìm những chữ thích hợp về thanh âm với công thức từ phổ để
điền vào. Sáng tác Từ còn gọi là Điền Từ.
Như vậy, có thể nói Lương Châu Từ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật
bằng, vần bằng được tác giả khéo léo điền vào ăn khớp với một từ phổ của xứ
Lương Châu. Đo đó, Lương Châu Từ còn được gọi là Khúc Hát Lương Châu.
Với thơ thất ngôn tứ tuyệt thì “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân
minh”. Tuy nhiên, khi điền từ thì “nhất tam ngũ” nhiều khi cũng không được “bất
luận” mà phải “uốn mình” cho hợp với thanh âm của công thức từ phổ.
Đây là bài bình thơ nên tôi chỉ bàn đến khía cạnh văn chương – nghĩa là sẽ
đối xử với Lương Châu Từ như một bài thơ. Còn lãnh vực âm nhạc xin mời các cao
nhân khác.
LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
VUONG HÀN
2/ Ba Cách Hiểu – Ba Bản Dịch
Câu thứ hai của bài thơ
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
có 3 cách hiểu.
1/ Muốn uống (mà chưa uống) thì tiếng nhạc của nhóm
nhạc công “cỡi ngựa chơi đàn tỳ bà” đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống
rượu). Ở đây “tỳ bà mã thượng” được hiểu là nhóm nhạc công chuyên chơi đàn tỳ bà
trên lưng ngựa.
2/ Muốn uống (mà chưa uống) thì ngay lập tức tiếng đàn
tỳ bà đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “mã thượng”
được hiểu là ngay lập
tức, tức thì.
3/ Muốn uống nhưng tiếng đàn tỳ bà đã thúc giục lên
ngựa ra đi.
Do câu thứ hai có 3 cách hiểu nên bài thơ có 3 bản
dịch khác nhau.
1/
Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang, mới dợm uống thì tiếng tỳ
bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời. Đừng cười ta say vùi năm lăn
trên bãi cát, anh nhé, vì xưa nay chinh chiến đã mấy ai sống sót mà
về. (Khúc Hát Lương Châu, Chin Shun-Shin, Nguyễn Nam Trân dịch).
2/
Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Mới dợm uống thì đàn tỳ bà đã ngay lập tức giục giã khuyên mời
Nếu có say nằm lăn trên bãi cát xin bạn chớ cười (sa trường là bãi cát, nơi
tập họp quân, chờ lên đường)
Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
(Tự dịch)
3/
Rượu bồ
đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười (sa trường là chiến trường)
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
Tác Giả Và Bối Cảnh Của Bài Thơ
Tác giả của Lương Châu Từ là Vương Hàn (687 – 735) - tự Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh
Sơn Tây). Thi đỗ Tiến Sĩ, đã từng được Tể Tướng Trương Thuyết mời về kinh đô
làm Bí Thư Chính Tự, lo việc thư tịch.
Ông vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng phong lưu, hơi tự cao; khi
uống rượu vui chơi thường sánh mình với các bậc vương hầu nên bị nhiều người đố
kỵ. Năm 726, Trương Thuyết thất sủng phải giáng làm Trưởng Sử Nhữ Châu, Vương
Hàn cũng bị đổi ra Tiên Châu (nay thuộc huyện Tây Phong tỉnh Liêu Ninh) làm
chức nhàn quan hữu danh vô thực là Biệt giá. Sau ông lại bị biếm ra
Đạo Châu và mất ở đấy.
Bài thơ là cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và
chiến đấu) nơi miền biên ải. Quân thì đã tập họp đông đủ chờ lệnh. Lời thơ là
tâm trạng của vị tướng chỉ huy đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn
dò, khích lệ của cấp trên (có thể là vua hoặc quan chức lớn hơn).
Vì thế, nếu cho rằng “mới dợm uống thì đàn tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời” (cách hiểu 1) hoặc “mới dợm
uống thì ngay lập tức tiếng đàn
tỳ bà đã vang lên giục giã
khuyên mời (uống rượu)” (cách hiểu 2) và sau đó “nếu có say vùi nằm lăn trên
bãi cát (nơi quân lính tập họp) xin bạn đừng cười bởi xưa nay chinh chiến mấy
ai trở về” thì rõ ràng không
hợp với bối cảnh của bài thơ.
Có mấy điểm hơi khó chấp nhận:
1/ Rượu bồ đào hảo hạng và chén ngọc lưu ly là những
món quý thời bấy giờ nên khó có đủ để “mời’ cả đoàn quân uống đến mức “say
vùi nằm lăn trên bãi cát”.
2/ Chuẩn bị xuất quân mà lại chuốc rượu cho cả tướng
lẫn binh sĩ “say vùi nằm lăn trên bãi cát” thì không “thực tế” chút nào.
Tác Giả Có Phải Là Nhân Vật Chính Trong Bài Thơ?
Vương Hàn đỗ Tiến Sĩ, đã từng làm Bí Thư Chính Tự
(chuyên về thư tịch) ở kinh đô nên không phải là võ quan - nhân vật chính
(speaker) trong bài Lương Châu Từ. Có lẽ từng được chứng kiến nhiều buổi lễ
tiễn quân lên đường, trong đó có một số vị tướng ông quen biết đã ra đi không
về, nên sự thương cảm chất chứa trong lòng thôi thúc ông viết bài thơ.
Vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng, hay mở tiệc
rượu vui chơi nên bài thơ của ông là lời kêu gọi sự thông cảm, bao dung cho
những thái độ, hành động “hơi khó coi” của những người phải “bỏ dở cuộc vui” ở
hậu phương để lên đường chinh chiến nơi miền biên ải, sống chết khó lường.
“Lương Châu Từ” Là Bài Thơ Về Rượu Hay Về Nỗi
Sầu Chinh Chiến?
Lương Châu Từ chỉ có 4 câu, 28 chữ nhưng nếu đọc lên
hoặc ngâm nga thì có đến 16 chữ thấm đẫm hơi men, thơm nồng mùi rượu (câu 1,
câu 3 và 2 chữ “Dục ẩm” của câu 2), 12 chữ còn lại (5 chữ sau của câu 2 và cả
câu 4) bao phủ một không khí ly biệt, chết chóc, thê lương của chiến tranh. Cả bài thơ là một nỗi buồn sầu bao
la, sâu lắng.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là “Ý chính của bài thơ là
gì? Rượu hay Chiến Tranh?” Tác giả mượn rượu để nói về chiến tranh hay mượn
chiến tranh để nói về rượu?
Trong Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương mượn rượu để nói đến
nỗi tủi nhục, uất ức, buồn sầu (nói chung là thành sầu) của mình trước cảnh quê
hương tan nát dưới gót giầy xâm lược của thực dân Pháp.
Nguyễn Bá Trác qua Hồ Trường mượn rượu để bày tỏ tâm
trạng bất đắc chí của một sĩ phu yêu nước.
Chúng ta thử cùng xem cách dàn ý của Lương Châu Từ:
(Tôi xin được dịch sát và thay đổi thứ tự các ý nhỏ để độc giả dễ phân biệt đâu
là ý chính của tác giả và đâu là những ý phụ tác giả mượn để diễn đạt ý chính
đó).
Rượu ngon chưa kịp uống (chưa được say) đã có tiếng tỳ
bà giục lên ngựa (ra đi) mà chinh chiến thì xưa nay có mấy ai (sống sót) trở về nên nếu có say khướt, nằm dài
giữa chiến trường xin bạn thông cảm, đừng chê cười.
Phần chữ in đậm là ý chính và phần chữ nghiêng là
những ý mượn.
Như vậy, khác với Say Đi Em và Hồ Trường, Lương Châu
Từ mượn chuyện chén rượu ngon chưa kịp uống và sự sống chết bất thường của
chinh nhân rồi dùng thủ pháp “xạo nghệ thuật” biện minh và kêu gọi sự bao dung,
thông cảm cho việc say khướt đến mức lố bịch ngoài chiến trường.
Cũng xin nói thêm là vào cuộc chinh chiến không phải
lúc nào chinh nhân cũng cầm guơm giáo lăn xả vào đâm chém, sống chết với quân
địch. Cũng có nhiều khoảng thới gian giữa những trận đánh - có khi rất dài -
tướng tá, binh sĩ được thảnh thơi, dưỡng sức, vui chơi. Đó là lúc tìm những
cuộc vui nho nhỏ cho qua ngày tháng và cũng có khi “say khướt, nằm dài giữa
chiến trường” như đã nói ở trên.
Một điểm đặc biệt trong Lương Châu Từ là không biết vô
tình hay cố ý Vương Hàn đã cho “ý mượn” được tiến lên vị trí ngang hàng với ý
chính.
1/ Bằng câu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
ông đã thổi phồng quá lố con số những người ra đi không về đến nỗi nhà phê bình
Thu Tứ phải lên tiếng:
“Ờ, mà đi thường cũng nhiều về chớ đâu tới nỗi hiếm. Trận nào đây mà người
dự bi quan thế?” (Lương Châu Từ Của Vương Hàn, Thu Tứ)
2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” thuộc
phần “ý mượn” nhưng lại được đặt ở cuối bài làm nhiệm vụ của câu kết nên lưu
lại ấn tượng mạnh hơn.
Chính vì thế tuy phần nói về chiến tranh chỉ là phụ,
là “ý mượn”, nhưng không khí ly biệt, chết chóc của chiến tranh
trong bài thơ có vẻ như không thua kém hình ảnh “túy
ngọa sa trường” tý nào – dù hình ảnh này đã được thủ pháp “xạo nghệ thuật”
tô vẽ thêm rất nhiều.
Phương cách có hơi bá đạo (thổi phồng quá lố) nhưng
với độc giả của Lương Châu Từ lại đạt hiệu quả cao. Họ rất dễ thông cảm với
hành động “tìm những cuộc vui nho nhỏ” ngoài chiến trường dù lắm khi đi đến chỗ
“khó coi” như “túy ngọa sa trường”.
Sau đây là vài khuyết điểm của bài thơ:
Thổi Phồng Quá Lố.
Như đã nói ở trên, “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
là câu thơ hơi “xa sự thật”. Tuy nó đóng góp rất nhiều cho việc vẽ lên bức
tranh chết chóc, thê lương một cách đáng sợ của chiến tranh, giúp thuyết phục
đám đông độc giả dễ tính thông cảm, chấp nhận hình ảnh “túy ngọa sa trường”
của chinh nhân. Nhưng nó cũng để lại một vết ố không nhỏ trong bài thơ dưới mắt
những người làm công việc thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca.
Mời độc giả thử để ý câu thơ:
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Câu thơ này có 2 phần. “Tửu phùng tri kỷ” là
phần “gốc”, là chỗ dựa, là cái cớ để tác giả vin vào đó mà “xạo tới bến”, “nói
một tấc đến giời”. “Thiên bôi thiểu” là phần “ngọn”, là phần “nói
một tấc đến giời” đó. Do có “phần gốc” hợp lý, vững chãi làm chỗ dựa nên phần
ngọn dù cường điệu hết cỡ, dù “xạo tới bến” vẫn rất dễ được chấp nhận. Uống
rượu gặp tri kỷ thì nghìn chén cũng là ít. “Nghìn chén cũng là ít” là
quá xa sự thực, quá xạo, quá vô lý. Nhưng cái quá xạo, quá vô lý ấy đã “tạo
sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý
mà có lý trong nghệ thuật” nên đã làm mới câu thơ và được hoan nghênh nhiệt liệt. Đó là biện pháp tu từ có tên “lối nói thậm xưng” mà trong một số
bài viết tôi gọi là “xạo nghệ thuật”.
Cũng vì sự quá lố của câu “Cổ lai chinh chiến kỷ
nhân hồi” mà thủ pháp “xạo nghệ thuật” trong Lương Châu Từ đã bị giảm hiệu
quả khá nhiều.
Cái Kẹt Của Thơ Tứ Tuyệt
Thử tưởng tượng đang xem một pha đá phạt trong bóng đá. Điểm đá phạt ở
ngoài nhưng ngay sát vòng 16 mét 50 trước khung thành đối phương. Cầu thủ được
huấn luyện viên chỉ định đá phạt cầm bóng đặt vào vị trí. Những cầu thủ khác
của cả hai đội cũng tùy nhiệm vụ của mình mà dàn quân. Ai cũng sẵn sàng để nếu
bóng bật ra là tìm cách đưa bóng vào khung thành (nếu là đội công) hoặc cản phá
(nếu là đội thủ). Thế rồi tiếng còi của trọng tài vang lên, cầu thủ đá phạt -
bằng kỹ thuật và kinh nghiệm của riêng mình – sút bóng qua hàng rào người, vào
lưới. Tiếng reo hò, vỗ tay của khán giả vang dậy cầu trường.
Nhưng nếu bóng đá mà chỉ toàn những cú đá phạt như vậy thì chán chết. Khán
giả sẽ không thấy được tài sắp xếp thế trận của huấn luyện viên, không thấy
được khả năng chận bóng, đi bóng, lừa bóng, sút bóng “sống”, cản phá bóng, khả
năng phối hợp nhịp nhàng với đồng đội khi lên công, lúc về thủ của cầu thủ.
Khán giả sẽ không có những giây phút đứng tim khi đội bóng cao hứng chơi xuất
thần, có những đường chuyền “đẹp như mơ”, những cú sút “không thể tin là có
thực” đưa bóng vào cầu môn đối phương. Tất cả đã đưa bóng đá lên ngôi “thể thao
vua”, thu hút sự yêu mến đến cuồng nhiệt của hảng tỷ người trên thế giới.
Cũng vậy, một bài thơ ngắn cỡ tứ tuyệt không đủ chữ để thi sĩ trổ tài điều
binh khiển tướng, sắp xếp đội hình cho một trận đánh có tầm vóc. Đề tài thường
rộng, chung chung, không đủ không gian và thời gian đi vào tâm tình riêng tư
của nhân vật để cảm xúc có cơ hội dâng lên cao ngất.
Trong Lương Châu Từ, bóng dáng của lý trí vẫn còn rất rõ nét trong từng
chữ, từng câu thơ. Tứ thơ không đủ dài để độc giả thấy được sự “vận động” của
ngôn ngữ, để cảm xúc có sóng sau dồn sóng trước, lớn mạnh đến mức đẩy lý trí đi
chỗ khác chơi, tạo được cao trào cho hồn thơ xuất hiện.
Hai Chữ “Dục Ẩm” Vừa Dở Lại Vừa Hay Tuyệt
Một điểm hơi xa thực tế nữa đến từ hai chữ “Dục ẩm” –
trong ngữ cảnh của bài thơ có nghĩa là “muốn uống”, “toan uống”, “chưa kịp
uống”. Như đã nói ở trên, bài thơ là khung cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm
(và chiến đấu) nơi vùng biên ải. Quân thì đã tề tựu đông đủ; tướng thì đang
nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò của vua hoặc một quan chức lớn
hơn.
Nghe dặn dò xong, hớp vội chén rượu, vị tướng bước ra
cổng thì đàn tỳ bà trỗi lên thúc giục ông lên ngựa – và cũng thúc giục cả đoàn
quân - lên đường. Dốc cạn chén rượu chưa hết một giây nên chuyện “chưa kịp
uống” là rất khó xảy ra. Thêm vào đó, cái cảnh bỏ lại chén
rượu cấp trên ban thưởng để lên ngựa dẫn quân ra trận là rất ‘khó coi”. Vội vã
như thế không phải lối; vừa bất kính với cấp trên, vừa không hợp với cung cách
ứng xử của một vị tướng.
Hơn nữa, người chỉ huy ban nhạc đàn tỳ bà đâu phải
“muốn chơi lúc nào cũng được” mà phải trổi nhạc đúng thời điểm đã được căn dặn
trước (lúc vị tướng uống rượu xong).
Thấy ra điểm bất hợp lý này nên một nhà thơ, nhà văn,
nhà sử học người Anh ông Pierre Stephen Robert Payne (1911-1983),
đã dịch bài thơ ra tiếng Anh như sau:
The Song of Diangchow
The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned!
(Lương Châu Từ, Lý Văn Quý) (5)
trong đó câu thứ 2
“Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi” được dịch là “Uống hay không uống,
tù và đã giục lên ngựa”.
Tuy nhiên, “Dục ẩm” cũng có cái hay của nó. “Muốn uống”, “chưa kịp uống”
nếu hiểu rộng ra còn có nghĩa là “cuộc vui chưa trọn”. Mà cuộc vui trên đời đâu
phải chỉ có rượu. “Cuộc vui chưa trọn” còn có thể là ái ân phu thê đứt đoạn,
tình yêu lứa đôi dở dang, ơn cha chưa trả, nghĩa mẹ chưa đền, những dự tính,
ước mơ chưa thực hiện … và còn muôn ngàn thứ khác nữa.
Lên đường chinh chiến không phải chỉ đem mạng sống của mình “đùa” với giáo
gươm, súng đạn mà còn là chấp nhận nhiều mất mát hy sinh khác; đó là chấp nhận
giã từ biết bao “cuộc vui chưa trọn” của đời người.
Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan có nói gì đến chết chóc ngoài chiến
trường đâu. Anh chồng chiến binh mới cưới vợ và 3 người anh của vợ cũng đều là
bộ đội, vẫn sống nhăn trong khi cô vợ ở hậu phương yên bình thì lại …
chết đuối trong lúc đi giặt quần áo ở bờ sông. (Lời Tự Thuật Của Hữu Loan, Tác
Giả Màu Tím Hoa Sim) (6)
Tội ác của chiến tranh trong Màu Tím Hoa Sim không phải là những cái chết
của người lính ngoài chiến trường mà là sự chia xa, phải giã từ những “cuộc vui
chưa trọn”. Sau đây là vài chi tiết làm quặn thắt lòng người:
1/
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân
Đám cưới mà cô dâu không có thời gian (và tiền) để may áo cưới. Chú rể mặc
đồ lính, đôi giầy vẫn còn vết bùn chưa giặt sạch.
2/
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Được 2 tuần phép nhưng phải để một tuần hâm nóng tình xưa, “tuần sau đó”
mới kết hôn. Như vậy, cưới vợ xong, chỉ có một tuần trăng mật; đang mặn nồng đã
phải chia tay lên đường ra đơn vị. (6)
3/
Ba người anh được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Đám cưới của em gái không được về dự, rồi quan san cách trở đến mức “biết
tin em gái mất trước tin em lấy chồng” thì quả là vô cùng đau xót.
Ở đây con người không bị đổ chung vào một thúng kiểu “cá mè một lứa” như
Lương Châu Từ mà là một cá thể có tâm trạng và cảm xúc riêng biệt. Hữu Loan đã
đủ tài năng và nhạy cảm để qua Màu Tím Hoa Sim, cho độc giả thấy một khuôn mặt
khác của chiến tranh, không sặc mùi xương máu, chết chóc mà có vẻ rất hiền lảnh
- hiền lành nhưng đã nhẫn tâm cướp đi những thứ quý giá nhất của con người.
Vương Hàn, qua Lương Châu Từ, chỉ với hai chữ “Dục ẩm”, đã bóng gió nói đến
những “cuộc vui chưa trọn”, những thứ quý giá nhất đó. Có điều vì thể thơ tứ
tuyệt “thiếu quân” nên điều muốn nói không được đậm nét và mãnh liệt như Màu
Tím Hoa Sim.
Con người trong hoàn cảnh đó có sống cũng chỉ là cái sống sinh học của thể
xác, còn những thứ để con người được sống như một Con Người đã bị chiến tranh
cướp mất.
Sống như thế, đến cuối đời nhìn lại, quãng thời gian đó chẳng khác gì mình
đã chết.
“Tử Biệt” “Sinh Ly” Trong Cuộc Nội Chiến Bắc Nam
Mới đây, nhân ngày 30 tháng Tư (2019), tôi đọc được đoạn thơ của nhà giáo
Thái Bá Tân (qua emails):
Bộ đội
Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn.
19 Tháng Tư, 2019
(Thái Bá
Tân, 30 Tháng Tư, 1975)
Tác giả không chú thích nên tôi không biết nguồn gốc của những con số ấy.
Nhưng tôi không tin là ông viết bừa, nói bậy. Thứ nhất, vì uy tín của mình; thứ
hai, nếu “được hỏi thăm” mà ú ớ, không biết những con số đó xuất xứ từ đâu thì
… kẹt lắm - cả về trách nhiệm dân sự lẫn hình sự.
“Một triệu một trăm nghìn” bộ đội chết là con số rất lớn (so với dân số
Miền Bắc thời chiến tranh) nhưng đã tương xứng với câu thơ “Cổ lai chinh chiến
kỷ nhân hồi” chưa, thì còn tùy độc giả nhận định. Có điều tôi dám xác quyết là
nỗi khổ, nỗi buồn “sinh ly” của bộ đội và người dân Miền Bắc so với binh lính
và người dân Miền Nam thì khác nhau một trời một vực.
Tôi có ông anh họ ở Kiến An. Cuối năm 1988 tôi về quê tìm đường vượt biên,
gặp nhau hắn tâm sự:
Tớ vừa đến tuổi, chưa biết yêu, chưa nếm mùi đàn bà, đã phải lên đường vào
Nam. Không nhớ là mấy năm sau, gặp thằng bạn cùng lớp ở rừng Quảng Đức, hỏi
thăm chuyện gia đình thì nó vừa cười vừa nói “Tao có khác gì mày. Trời sinh ra
cái b. của tụi mình chỉ để đái thôi”.
Chỉ một câu nói đùa nhẹ nhàng mà làm xót xa biết bao nhiêu cõi lòng, làm
nhức nhối biết bao nhiêu trái tim. Bởi nếu cái b. chỉ để đái, thế còn “cái ấy”
của phụ nữ thì sao? Rồi còn sợi dây tình cảm nối người này với những người
khác; chính sợi dây đó làm đời sống tinh thần của con người thêm phần phong
phú. Thiếu nó, thiếu chút ít thì còn cố chịu được, chứ thiếu nhiều thì “chất
người” sẽ nhạt dần đi, còn vắng bặt nó thì con người sẽ không còn là con người
nữa.
Những người lính ở Miền Nam cũng đau thương mất mát nhưng không đến
nỗi ghê gớm như vậy. Họ được chiến đấu ở “sân nhà” nên hậu phương gần gũi hơn,
mất mát về mặt tình cảm ít hơn, nhẹ hơn. Những “cuộc vui dang dở” thường có cơ
hội lập lại để “vui trọn đêm nay”. Nhưng mất mát dù có nhẹ hơn chút ít cũng vẫn
là mất mát, cũng để lại những vết thương, những nỗi đau sâu đậm trong tâm hồn
mỗi người, chữa trị phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Tóm Tắt Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ
ƯU ĐIỂM:
1/ Tứ thơ hay: Lương Châu Từ mượn chuyện sống chết bất kỳ của chinh nhân
trong chiến tranh để biện minh (xin thông cảm) cho một số thái độ, hành động
của người lính ngoài chiến trường. “Túy ngọa sa trường” chỉ là một thí dụ.
2/ Tính nhân Bản: Cái hay tuyệt của bài thơ nằm ở 2 chữ “Dục ẩm” – có ý nói
tiệc rượu chưa tàn, nói rộng ra là “cuộc vui chưa trọn”. Chiến tranh là tử
biệt, sinh ly (chưa nói đến sự tàn phá về vật chất). Nhưng người đời
thường chú trọng phần “tử biệt” mà coi nhẹ phần “sinh ly”. Chính “sinh ly” đã
bóp nghẹt chữ “tình” để con người chỉ còn là những cỗ máy lao vào chém giết.
Vương Hàn, bằng 2 chữ “Dục ẩm” đã sử dụng thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t
Tell) một cách điệu nghệ làm nổi bật chữ “tình” bị bóp nghẹt đó. Tính nhân bản
của bài thơ rất sâu đậm.
3/ Mặc dù trong bài thơ, chiến tranh chỉ được mượn để biện minh cho một số
thái độ và hành động của người lính ngoài chiến trường nhưng chính hình ảnh
chiến tranh lại hiện lên rất đậm nét ở cả 2 mặt “tử biệt” và “sinh ly”. Có
người còn đặt tựa cho bài viết của mình về bài thơ này là “Lương Châu Từ và Nỗi
Buồn Chiến Tranh” hoặc “Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến”. Tôi cho rằng,
trong trường hợp Lương Châu Từ, họ hoàn toàn có quyền làm như vậy.
KHUYẾT ĐIỂM:
1/ Hai chữ “Dục ẩm” (như đã nói ở trên) hơi không hợp lý.
2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” hơi “xa sự thực”, ảnh hưởng
đến thủ pháp “xạo nghệ thuật” và độ khả tín của bài thơ. Chỉ nên nói đại
ý “chinh chiến thì sinh tử bất kỳ”.
3/ Bài thơ nặng về “kỹ thuật” (ngôn ngữ, hình tượng, “gợi không kể”), ít
cảm xúc, lại quá ngắn nên không có chỗ cho cảm xúc lớn mạnh để tạo cao trào –
không có cơ hội để hồn thơ xuất hiện.
Phổ Biến Rộng Rãi Nhờ Tứ Thơ
Thảm họa của chiến tranh quá khủng khiếp. Nó là nỗi sầu, nỗi lo sợ, nỗi ám
ảnh lớn nhất của nhân loại. Mà muốn “phá thành sầu”, muốn quên sợ, muốn trốn ám
ảnh thì không gì bằng rượu. Vì thế Lương Châu Từ là bài thơ khá phổ biến,
thỉnh thoảng được đọc trong các tiệc rượu, hoặc những lúc “trà dư tửu hậu” thời
chiến tranh. Hơn nữa, nó ngắn, dễ thuộc lại là thơ Hán - Việt nên đọc cũng là
một cách “khoe tài”. Những nhà Nho Hán rộng, những người có hiểu biết về văn
chương, thơ phú thì không nói làm gì; ngay cả các ông một chữ Hán bẻ làm đôi
không biết, nói đến thơ phú thì ù ù cạc cạc, cũng ráng học thuộc lòng bài thơ
rồi nhờ người giảng giải để ghi nhớ, chờ cơ hội vào bàn nhậu là “trổ tài” góp
vui với bà con cô bác. (Tôi đã được hân hạnh giúp vốn cho hơn một chục ông như
vậy).
Bài thơ là tâm sự của một vị tướng chỉ huy, nhưng người đọc thơ không phải
là tướng tá (sĩ quan) cũng không sao. Đã mặc áo lính là có thể ưỡn ngực với
danh hiệu chinh nhân. Mà nếu không phải là chinh nhân cũng đâu có hề gì. Thảm
họa của chiến tranh lớn quá. Bàn tay tàn ác, gớm ghiếc của nó – lúc trực tiếp,
khi gián tiếp - có thể vươn tới tất cả mọi người, bất kể lính tráng hay dân
thường. Rồi câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” có quá lố một chút thì cũng có
gì mà ầm ĩ? Rạch ròi làm chi cái con số người sống sót trở về! Và như thế, dù
là người đọc hay người nghe, rất dễ thả hết tâm hồn vào bài thơ, đồng cảm với
tác giả - nghĩa là cũng mở lòng bao dung với thái độ, hành động của người lính
ngoài chiến trường (hay khi về phép ở hậu phương) – đôi lúc thái quá, “khó coi”
có khi còn hơn cả “túy ngọa sa trường” nữa.
Điểm thành công lớn của bài thơ là ở chỗ đó.
Kết Luận
Xét về nghệ thuật thơ, Lương Châu Từ vẫn còn đôi chỗ lộm cộm, nhưng nhờ tứ
thơ hay, đầy tính nhân bản nên đã 13 thế kỷ trôi qua, nó vẫn chưa có dấu hiệu
sẽ đi vào quên lãng. Theo tôi, đây là một bài thơ độc đáo. Với những người yêu
thích cổ thi Trung Hoa, khi nhâm nhi ly bia, chén rượu, tách trà, nhớ đến nỗi
sầu “sinh ly tử biệt” của chiến tranh, Lương Châu Từ rất dễ bước vào câu chuyện
để “Mua vui cũng được một vài trống canh.”
TEXAS 05/2019
Phạm Đức Nhì
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét