|
Nguyên Bằng |
Giống như phần nhiều tôi với những bằng hữu
đồng song, có lẽ với Yên Bằng cũng có một thời điểm quen biết nhau, vào khoảng
1968-1969.
Lúc đó, YB cũng có nhiều sáng tác góp mặt
trên báo chí, giới thiệu được vài tác phẩm thơ tự xuất bản. Như mọi hôm, thỉnh
thoảng đói tin anh em, tôi, Lưu Nhữ Thuỵ và Nguyễn
Thành Xuân từ cầu chữ Y, xuôi về chợ
Bến Thành, dĩ nhiên đều đáng ghi tâm là ghé chốc lát đến quán sách báo Nga,
ký gởi tờ tạp chí Khai Phá số 1 vừa
ấn hành, còn thơm phức mùi giấy.
Số là, sau nhiều lần thảo luận bàn bạc, anh em
văn nghệ đồng bằng Nam Bộ đồng tâm góp mặt liên tay, tạo ra một sinh khí
mới cho văn nghệ, là khai sinh tờ tạp chí Khai Phá, phát hành tay rộng rãi hơn
10 tỉnh thành. Để được thông tin sớm nhất khi tờ báo có mặt, đích thân tôi đến
nhờ anh Trần Phong Giao giới thiệu ở bán nguyệt san Văn,
nhà thơ Viên Linh loan tin dùm ở tuần báo Khởi Hành và dĩ nhiên là
tôi không bao giờ quên Khai Trí, và nhất là kiosque quán sách báo cô Nga, vì
mọi thông tin sẽ trao truyền một cách cẩn trọng và nghiêm túc. Hôm đó, khoảng
hơn 9h sáng chủ nhật sau khi ký gởi Khai Phá 1, tôi vẫn cố nán lại dò
xem thông tin đứa con tinh thần có được chư anh hùng hào kiệt để tâm hay
không?. Quả thật, còn gì sung sướng cho bằng, tác phẩm được chuyền tay, nghiêng
qua nghiêng lại lật từng trang chiêm nghiệm một cách cẩn trọng. Anh chàng độc
giả, với vóc dáng thư sinh và thanh lịch đó, thả hồn lặng lẽ từng trang tạp chí
Khai
Phá 1, đọc thầm lặng nhiều phút giây. Bốn bể đâu cũng là anh em, huống
chi đây có phải là một tri âm? Tôi không dám kinh động tới tha nhân, thời khắc
trôi qua, anh chàng xoay qua cô Nga, hỏi giá và trả tiền. Nga
chỉ tôi và anh em còn đứng nép vào góc quán sách. Yên Bằng giới thiệu mình,
sau cái bắt tay thật chặt, bằng hữu văn nghệ vừa quen. Tên Yên Bằng, năm đó, cũng đã
được giới thiệu rộng rãi trên các báo chí đương thời, nên dĩ nhiên tôi không lạ
gì, khi YB xướng danh. Nhưng điều làm tôi gắn bó từ đó đến nay, trên
dưới 40 năm, phải chăng là do sự đam mê, lãng mạn với văn chương? Lúc đó, tôi
còn là sinh viên,từ cuối miền biên thổ xa xăm lên Sài Gòn theo đuổi học tập,
như ý nguyện của song thân. Tài sản, chỉ có một ý chí cộngvới sự đam mê và tấm
lòng, nên tôi rất ngại ngùng khi Yên Bằng mời vào café
Kim Sơn gần đó, cùng trà dư tửu hậu. Sự chần chờ của tôi, làm YB
cười và vỗ vai, ngại gì đi với “moi”. Quen sơ giao, nhưng thời
gian cứ thông thả dần trôi, chúng tôi thường xuyên liên lạc qua tình đồng bằng
và văn nghệ, nên càng lúc càng thân và tin cẩn nhau chẳng khác gì, với những
bằng hữu văn nghệ khác như Hà Thúc Sinh, Nguyễn Lệ Tuân, Lâm
Hảo Dũng, Hạc Thành Hoa, Nguyễn Lệ Uyên, Phạm Chu Sa, Vũ Hữu Định, Phạm Nhã Dự,
Lâm Chương, Nguyễn Lê La Sơn, Nguyễn Mai, Trần Văn Sơn, Trần Phù Thế…
Yên Bằng có lúc
tâm sự một cách chân tình rằng, nỗi bất hạnh cứ đeo đẳng, nhưng con người làm
văn nghệ, từ khiếm khuyết nầy đến dang dở khác, đưa đẩy anh bước một chân vào
trường văn trận bút. Điều nầy không nằm trong dự kiến của nhà thơ, nhưng giữa
thời đại nhiễu nhương “vì máu ta đã chảy,trên cánh đồng vàng úa cỏ
vô nhân. Chẳng biết rằng khi chết có vui không. Nhưng chắc hẳn em sẽ buồn quá
đổi. Vì ở Việt Nam
có nhiều cái lạ. Người chôn người như thể thù nhân”.Từ đó, thơ anh nặng
nề hơn, bộc phá hơn như một sự phản kháng với cuộc đời, mà ngọn bút với Yên
Bằng là một thứ vũ khí thật cần thiết, viết để mà sống, mà tự an ủi tâm hồn trong suốt cuộc hành trình cuộc đời trôi nổi phiêu bạt khắp cõi ta bà, của
tận cùng khổ đau của kiếp người khổ hạnh..
Nhiều cuộc tai biến trong cuộc đời thanh xuân,
khiến chàng trai trẻ phải oằn mình, sống và sống… như một kẻ mồ côi, trải nghiệm
suốt cuộc đời, đến hạnh phúc bay đến mà nhà thơ có dịu dàng đùa bắt, cũng nghi
ngờ như chỗ nương tựa hư không “Bởi mình giao hoan giữa núi giữa rừng…Hãy
mở mắt nhìn nhau. Bằng đôi hàm răng nghiến chặt. Ý nghĩa cuộc đời như loài rắn
lục. Thật vô tình bên trái tim khô…”
Trong tận cùng hố thẳm đó, “như sự hoá thân thoát từ lòng
đất. Anh trở về như một hoả sơn”. Theo Yên Bằng, đó là lúc tâm
trí anh bừng dậy, bay nhảy chung quanh những điểm tựa bằng hữu như: Thế
Phong, Dương Trữ La, Ngô Nguyên Nghiễm, Hà Thúc Sinh, Hoàng Khởi Phong, Hoài
Hương Tử, Cao Bá Minh…Giai đoạn nầy, sự cam go khổ hạnh đã khiến YB
hình thành một phong cách mới, thơ anh bỗng nhiên hào sảng và sáng rực hơn bao
giờ hết, thành tựu một nhân cách sống cho mình, cho thơ kiên cường hơn. Năm 1967,
vì cảm mến Hoàng Khởi Phong và Thế Phong anh gia nhập Đại Nam Văn Hiến, với một niềm hạnh phúc như tìm thấy lại bản ngã chân truyền. ĐNVH lúc đó là một bút nhóm
với nhiều tài hoa văn nghệ, đã cống hiến được nhiều trí tuệ và tác phẩm văn học
lừng lẫy. Phần đông, tác phẩm chỉ in bằng ronéo, nhưng các bằng hữu cũng tự làm
bằng tay dưới hình thức bằng lốp vỏ xe hơi, kéo mực in trên từng tờ giấy một.
Cứ một người kéo mực in, thì người khác vội mang giấy chạy đi phơi cho khô… Công
phu thật đáng nể phục cho người làm văn nghệ, và chính vì vậy ĐNVH
trang trọng cho ra đời, nhiều tác phẩm giá trị trong thời gian nầy.
Yên Bằng phát
huy cật lực tài hoa trong giai đoạn 1970-1975. Thơ anh càng lúc càng hảnh diện
nhưng quá chua chát, nhiều lúc nhìn anh đứng lặng nhìn phương trời xa xăm nào,
hình như đang mơ ước một điều kỳ bí, đè nén nhưng muốn bùng nổ tan tành chính bản
thân, “đã qua lâu rồi ta nín khóc. Ngó cuộc đời như một cơn say. Bao năm mơ ước
làm tên mọi. Đứng giữa rừng há miệng cười cây”. Cuộc bùng nổ thật đáng
đau thương, như chiếc bong bóng dồn nén cô độc trong một khoảng không chật nứt.
Cứ nén, cứ nén, cứ nén… Rồi một cuộc oà vỡ tan tành, oà vỡ một cách tức tửi, cô
độc… như tên mọi giữa rừng há miệng cười cây… Cô độc quá đi thôi Yên
Bằng, nhưng cũng chính nhờ thế, và có lẽ trời bắt thi nhân phải thống
thiết, cay đắng, bi thương… nhà thơ mới tạo hình được một vũ trụ quan sinh động. Yên
Bằng viết báo, làm thơ càng hăng say…, anh gia nhập Nghiệp Đoàn Ký Giả năm
1970, và tổ chức nhiều chương trình đêm thơ ở các tỉnh miền Tây như Cà
Mau, Cần Thơ, Bạc Liêu, Sa Đéc, Chương Thiện… Tuy hạnh phúc đó của người
làm văn nghệ, bao giờ cũng ám ảnh Yên Bằng về một điều khắc khoải mà tâm linh như
nới rộng một sự cực hình cho chính bản thân anh “anh vào giòng sông lửa. Gục chết
giữa lòng đời. Cây sầu đông chợt úa. Trong cánh đồng đỏ tươi”.
Năm 1971, Yên Bằng xuất bản tập thơ Ta đi
trong vườn địa đàng, in ấn một cách nghiêm túc, với chân dung do Nguyễn
Hải Chí (Choé) phác hoạ, phụ bản và bìa của Lưu Nhữ Thuỵ, Hà Thúc Sinh
trực tiếp chăm sóc. Tác phẩm, đã đánh dấu Yên Bằng bước qua một thời lưu lạc, và
anh đường hoàng bước vững chãi vào khu vườn văn nghệ ưu ái dành riêng.
“Ta đương sống một đời phiêu bạt. Nên vẫn mong
tìm chuyện thánh kinh. Ươm mãi khu vườn trong ký ức. Mơ mùa bão lặng đón thần
linh’.
Hiểu thêm về cuộc sống trôi dạt, lưu lạc suốt
đời người, trong cuộc phỏng vấn riêng tôi có hỏi thầm với nhà thơ Yên Bằng:
- Bao
nhiêu khó khăn, lận đận dàn trải suốt lộ trình đời sống. Như vậy, thơ có giúp
anh
vượt
thoát ở quá khứ? Còn hiện tại thì sao?
Anh trầm tĩnh một cách chua chát, rồi trả lời
rằng:
- Không
cần thiết phải cầm bút làm thơ, chính cuộc đời của một kiếp người đã là một bài
thơ tuyệt tác rồi. Nếu ai biết được thân phận tôi từ thời niên thiếu cho đến
lúc trưởng thành đều không khỏi xót xa trước những bất hạnh, biết bao khó khăn,
vạn lần lận đận đã dàn trải suốt lộ trình đời sống của tôi. Từ một kẻ mồ côi
lưu lạc, phải làm đủ mọi công việc vặt vãnh để mưu cầu sự sống, đôi khi, tôi đã
hụt hẫng như một người bị kiệt sức và sắp chết đuối giữa chợ đời. Trong nỗi
tuyệt vọng tột cùng đó thì thơ đã tìm đến tôi như một sự ngẫu nhiên đầy huyền
năng, đã giúp tôi vượt thoát tất cả những hệ lụy để kiêu hãnh làm người. Tôi đã
quan niệm không có niềm kiêu hãnh nào bằng sự vươn lên từ trong vực thẳm, tôi
đã viết ”Một mai nào thức dậy từ căn gác nhỏ/ Mở cửa sổ/ Nhìn mặt trời/ Nghe
chim hót/ Tôi thầm nhủ mình có còn được là người không”. Nhờ có thơ, tôi trở
thành con người mạnh mẽ hơn, nghị lực hơn và tin yêu hơn với cuộc đời trước mắt
đầy chông gai và cạm bẫy, và thế là tôi mang niềm tin đi vào đời cho đến hôm
nay.
- Trong
một thời gian tương đối dài, tôi lăn vào cuộc mưu sinh đầy cơm-áo gạo-tiền để
lo cho bốn đứa con còn nhỏ dại. Tôi đã làm mọi công việc trái với ngành nghề,
miễn sao lo cho gia đình được tồn tại. Bây giờ tôi và gia đình đang sống trong
một căn nhà nhỏ và một khu vườn đơn sơ ở TP Hồ Chí Minh. Thú thật trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, không bao giờ tôi quên lãng chất thơ trong huyết quản mình, tự
dặn lòng “nếu cần ta sẽ làm lại từ đầu”.
- Đến
giờ tôi đã mấp mé tuổi “thất thập cổ lai hy”, nhìn lại, tôi thầm xót thương cho
mình đã vì hoàn cảnh mà hoang phí (dù chỉ phần nào) con đường văn học của mình.
- Trong
những tháng ngày còn lại, tôi sẽ dành trọn cho nghiệp chướng văn thơ với tất cả
sự mãnh liệt như một thời tuổi trẻ, để lấy lại những gì đã mất.
- Bạn
bè, người đã từng yêu mến tôi trong suốt 50 năm qua, xin hãy đánh giá khi tôi
ngừng thở, nằm yên trong cổ quan tài. Tất cả đều ở phía trước…
Và rồi 9 giờ sáng hôm nay (9-6-2019) Yên Bằng đã
thanh thản ra đi, như có lần nhà thơ đã kỳ vọng một thế giới vĩnh cửu: Ta Đi
Trong Vườn Địa Đàng (Vươn Lên 1971).
Chúc nhà thơ được siêu thoát trong một không
gian sắc không, đầy thơ và hạnh phúc của một kiếp người đã tròn đầy ân tình và
nghĩa khí với cuộc sống.
Ngô
Nguyên Nghiễm
Tiểu sử
văn học: YÊN BẰNG
Tên khai sinh: NGUYỄN VĂN BÉ
Sinh ngày 02/03/1945
(Chính tên: Đặng Văn Thông sinh năm 1943) tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hiện sống tại Sài Gòn (TP
Hồ Chí Minh).
- Thời niên thiếu học tại trường Trung học công
lập An Xuyên, tỉnh Cà Mau, sau về Sài Gòn học tiếp và làm thơ-viết báo để mưu
sinh.
- Yên Bằng mất lúc 9 giờ sáng ngày 9-6-2019 (nhằm
mùng 7 tháng năm âm lịch, Kỷ Hợi). Thọ 76 tuổi, an táng tại khu nghĩa trang
Thiên Phước, xã Tân Kim huyện Cần Giuộc tỉnh Long An.
Quá
trình hoạt động văn học:
· Bắt đầu cầm bút từ năm 1960
· Thành lập thi văn đoàn: "MIỀN CUỐI VIỆT" qui
tụ nhiều văn nghệ sĩ đương thời: Trúc Khanh, Hoài Song Thu, Thanh Hồ, Thùy Mai,
B.T. Áo Tím, Hoài Diễm Từ, Mạc Phong Vân…
Cộng tác với nhiều tạp chí, tuần san, nguyệt
san, nhật báo: Tiểu thuyết tuần san, Phụ nữ diễn đàn, Thời nay, Phổ Thông, Khởi
Hành, Tiền Phong, Đại Dân Tộc, Trắng Đen…
- Đoàn viên Nghiệp đoàn Ký Giả. Thành viên của
Đại Nam Văn Hiến.
Tác
phẩm đã xuất bản:
· Gia tài sót lại (thơ, Sinh lực mới, 1968, in
chung Hoàng Khởi Phong, Mạc Phong Vân )
· Lời tuyên ngôn trên vai Việt Nam (thơ, Đại Nam
Văn Hiến, 1969)
· Buổi trưa trong bệnh viện đời (tập truyện,
Sinh lực mới, 1969)
· Cơn biến động quê hương (thơ, Ronéo, Sinh lực
mới, 1970)
· Vết chém (tập truyện ngắn, Đại Nam Văn Hiến,
1970)
· Ta đi trong vườn địa đàng (thơ, Vươn lên,
1971)
· Trước sân nhà (thơ, in chung 14 tác giả, Trẻ,
1998)
THƠ YÊN BẰNG
TA ĐI
TRONG VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
Như một lần thay đổi kiếng mát
ta dìu em về cõi mưa sa
nghe lá trong vườn vang tiếng động
chắc người còn nhớ đến tên ta?
Đã quá lâu rồi ta nín khóc
ngó cuộc đời như một cơn say
bao năm mơ ước làm tên mọi
đứng giữa rừng há miệng cười cây
mời em cầm chặt tay sương lạnh
cho ta hơi ấm của tim người
mời em dựa má như tuồng kịch
cho ta lá chết phủ quanh người
nhiều khi ta sống không ra sống
đưa tiễn bạn bè như kẻ điên
đôi khi chim lạc bay phòng lạ
bơ vơ như một vết nhăn hiền
ta đưa em đến từ phương đó
con quạ đen nằm như bóng ma
nụ hôn tế độ vầng mây rộng
ôi tiếng ca xanh dậy bóng tà!
hồn đón tình em từ vạn kiếp
còng lưng ta chở nhịp tay roi
em còn hái lá trong mùa lạnh?
đem ủ hồn nhau trọn nửa đời
như một lần ta thay chiếc vớ
nghe tuổi em chừng độ chín non
ta đứng bên đời nghe chết điếng
cầu vồng ai bắt mà sang sông?
thế là chân gỏ con đường cũ
vườn địa đàng giờ rụng hết bông
ta sống qua ngày như thú lạ
tàn phai như một vết son hồng
một mai em có thành sương phụ
chắc đời buồn như nhánh sông tương
ta còn đi mãi trong vườn mộng
khép mắt mà mơ chuyện dị thường
lời nguyện cầu xưa chừng vọng vặt
chập chùng lớp lớp nỗi nhiêu khê
ta hiến thân ta làm vũ điệu
cho người đùa cợt buổi u mê
như một lần ta thay chiếc áo
tự nhiên ngực vỡ cuộc tình tan
sáng nay thức dậy trèo lên núi
mà nghe lá chết đổ trên ngàn
ta đương sống một đời phiêu bạt
nên vẫn mong tìm chuyện thánh kinh
ươm mãi khu vườn trong ký ức
mơ mùa bão lặng đón thần linh
một hôm ghé tạt qua vườn cũ
bông đã tàn lá cũng xác xơ
ta nghe hồn bỗng thành viên cuội
lăn giữa triền cao xuống đáy hồ.
YÊN BẰNG
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét