(Nguyễn
Hoàng Trung Hiếu)
Tôi đã
liên tưởng đến câu thơ, khi lặng người nhìn những vạt đất lở đỏ bầm như máu ứa cạnh
sông Vàm Cái Hố An Giang hay chứng kiến dòng nước xoáy vẫn còn hung dữ dù đã cuốn trôi bao nhiêu căn nhà dọc theo một
đoạn sông Tiền ở Đồng Tháp, và khi lướt qua bao nhiêu làng mạc ở miền đất Cửu
Long Giang vào mùa nước lớn mà nước hình như chưa về, đồng vẫn cạn, lá chưa
xanh, cá linh vẫn mất dạng đâu đó ở thượng nguồn… Bất chợt như có thoáng lo âu,
lỗi một nhịp tim, viễn cảnh một mai châu thổ hoang vu.
Vâng!
Câu thơ tưởng chừng viết về biển, nhưng không, nó như một dự báo tương lai “mặn
hóa” đồng bằng châu thổ sông Mêkong. Một sự đắng đót đến hoang mang khi nghĩ đến
tương lai không xa, miền đồng bằng châu thổ từng được xem là một vựa lúa “Thạch
Sanh” của cả nước đang ngày càng thu hẹp lại bởi xâm lấn nước mặn, bởi sạt lở
sâu những bờ sông không ngừng mỗi mùa lũ, và màu xanh cây trái cứ lần lượt mất
đi tạo những khoảng trống man mác buồn thênh trong tâm hồn…, không chỉ bởi biến
đổi khí hậu mà còn do con người vô tình hay hữu ý góp vào hủy diệt sự sống vốn
hiền hòa êm đềm của miền châu thổ này.
Tuổi
thơ tôi thấm đẫm những câu chuyện như cổ tích như huyền thoại về miền châu thổ
sông MêKong, từ truyện Bác Ba Phi “một hạt lúa một nồi cơm”, “cá leo ngọn cây đẻ
trứng”, “rắn hổ mây tát cá”, “cọp xay lúa”…, đến dòng Cửu Long Giang sông trào
nước xoáy với những con cá hô thân hình to như tấm ván ngựa, vây ánh bạc, hai
con mắt to bằng hai miệng chén ăn cơm, quẫy một cái làm mặt sông nổi sóng, tung
bọt trắng xóa và tạo nên tiếng động ầm ầm, gặp rằm trăng chúng phi thân trên mặt
nước thi triển sức mạnh “chúa tể sông ngòi”… Cuốn “Đất rừng phương Nam” của
Đoàn Giỏi đã như một từ điển, một cẩm nang về miền sông nước Nam Bộ suốt thời
thơ ấu của tôi, cho tôi hình dung một đồng bằng châu thổ giàu có trù phú thấm đẫm
phù sa và bất tận màu xanh…
Quê nội
quê ngoại của tôi nổi danh miền Tây Nam Bộ, một Cần Thơ “gạo trắng nước trong”,
“miền gái đẹp” với “áo bà ba trên dòng sông Hậu thăm thẳm”..., một Kiên Giang
như “Việt Nam thu nhỏ” có sông có biển, có núi có ruộng, có biên giới hải đảo,
có “hòn ngọc Phú Quốc”, có “Hà Tiên thập cảnh” nổi danh cùng “Tao đàn Chiêu anh
các” từ 4 thế kỷ trước, nhưng rồi theo con nước, theo những nóng giận của ông
Trời và sư vô tâm của tình người với đất, cứ mỗi ngày mỗi mất đi một cảnh quan
nào đó, mất đi những “nick name” đánh dấu sự độc đáo đặc biệt của miền quê … Ba
má kể ngày xưa đi kháng chiến, đất rừng miền Tây đã nuôi cả cuộc kháng chiến
thành công, từ ngọn lúa ma ở Đồng Tháp mùa nước nổi, đến những con cá con tôm ở
miệt U Minh Thượng, U Minh Hạ, từ những vạt rừng dừa tầng tầng lớp lớp Bến Tre,
thốt nốt An Giang, đến những vườn cây trái sum xuê bốn mùa thơm thảo trái chín,
sân chim náo nhiệt bản hòa tấu trời xanh miệt vườn Vĩnh Long, Tiền Giang… Tôi
như đang trở ngược ký ức của ba má, xuyên không thời gian để trải nghiệm quá khứ,
khi hiện tại mọi thứ cứ như đang dần tuột mất trong tầm mắt không chỉ là tính
theo năm mà hình như từng ngày từng giờ, tạo nên những vết xước trong tim không
hề nhẹ...
Cứ
như trải qua nhiều cuộc bể dâu đến xót xa, giống như vết cứa vào tâm hồn càng
ngày càng sâu thêm, khi băng qua vùng châu thổ MêKong chỉ thoáng chốc, nhưng
“những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Con người chỉ bởi lòng tham và cả sự
ngạo mạn trong vai “ông chủ” đã cố tình “uốn nắn” thiên nhiên theo ý và buộc phải
phục vụ con người… Chính vì thế mà bao nhiêu gốc tràm, đước bám rễ giữ đất lấn
biển, lọc phèn khử mặn tạo nên một miền rừng ngập mặt đẹp như những trang thơ
lãng mạn bỗng chốc biến thành những vuông tôm nhân tạo xơ xác cả vùng rừng, để
ngay con tôm tự nhiên cũng bỗng nhiên tủi phận mà dần “lặn” mất. Đất châu thổ nặng
phù sa Mekong hào phóng cho hai mùa lúa trong năm để làm ra những hạt ngọc trời
với những dòng lúa mà giờ phần lớn chỉ còn lưu giữ trong bảo tàng gene với những
cái tên cổ tích như nàng tro, ba kiếu, ba trúc, gẫy xe, nanh chồn, châu hàng
võ, trắng chùm, trắng lép, huyết rồng.. , để thay vào các loại lúa cao sản mỹ
miều Thần nông 73-2, IR64, IR19660, IR42,
IR36, OM 1490, OM 2031, MTL 250, VND 95-20, Khao 39…, tới bốn vụ trong
năm. Để không ngừng tăng sản lượng lúa mà đất cạn kiệt sức, bạc màu, nên lại
thúc ép đất bằng cách thả xuống hàng triệu tấn hóa chất nhân tạo như một thứ ma
túy cho đất, khiến cho đất gần như chai lì, mất cảm giác, cơm từ hạt gạo cao sản
không cảm được hương vị ngọt của đất phù
sa.., để thương để nhớ đồng quê mà chỉ thấy càng ngậm ngùi.
Không
biết có phải thế mà khi tôi nhìn thấy những gói nhỏ gạo giống lúa Huyết rồng, một
giống lúa quý của Ðồng Tháp Mười có cách đây hàng trăm năm, gạo có mầu đỏ và
hương vị thơm ngon béo ngậy, đang được gầy giống lại, đã không ngần ngại xẻ ra
bốc vài hạt nhai sống, ta nói cái vị ngọt gạo xưa sao nghe thương đến lạ lùng,
đến chảy nước mắt vì yêu.
Có một
nỗi xúc động đến vỡ òa, khi tôi chạm vào vẻ đẹp lặng lẽ pha chút kỳ bí của rừng
tràm Trà Sư thuộc địa phận xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, An Giang, cách biên giới
Campuchia khoảng 10km về phía Tây Bắc và cách sông MeKông khoảng 15km về phía
Đông Bắc, với hệ sinh thái điển hình của vùng rừng ngập nước phía Tây sông Hậu,
như một khám phá miên man con đường nước màu xanh huyền ảo. Không chỉ cái tên
“Trà Sư” vẫn còn đang trong vòng tranh cãi của các nhà ngôn ngữ học, địa lý học,
khảo cổ học… tạo nên một vòng huyền hoặc miền này, mà đầy còn là một bức tranh
thiên nhiên đầy màu sắc.
Khi
chiếc tắc ráng rẽ những thảm lục bình xanh tiến vào rừng, thấp thoáng đâu đó
quanh bờ những tàng cây cổ thụ soi bóng trên mặt nước miên man, những hàng cây
uyển chuyển lay mình theo chuyển động của từng con sóng, nối tiếp hiện lên cho
tới mãi cuối con đường, nổi bật trên cái nền xanh nướt mát huyền dịu ấy, có đôi
lúc bắt gặp những khóm điển điển rực rỡ màu vàng nắng ấm áp, những khóm súng
hoa tím mạnh mẽ vươn cao, khóm sen hồng e ấp nụ lấp ló sau tán lá xòe ô, thi
thoảng bắt gặp những cánh chim bay liệng trên cao cất tiếnng hót véo von một
giai điệu thần tiên diệu vợi, hay vài chú gà lôi đang xòe cánh chộn rộn trong đầm
nước, đặc biệt còn nhìn thấy cả giang sen và điêng điểng, hai loài chim quý hiếm
trong sách đỏ…, tất cả như những nét chấm phá đầy lạ lẫm mộng mơ cho bức tranh
thơ rừng tràm quá đỗi đẹp xinh.
Theo
những thông tin được biết thì hiện nay tại rừng tràm Trà Sư với diện tích 850
ha có 70 loài chim thuộc 13 bộ và 31 họ, 11 loài thú thuộc 4 bộ và 6
họ, 25 loài bò sát gồm 2 bộ, 10 họ và 10 loài cá xuất hiện quanh năm
và 13 loài chỉ xuất hiện vào mùa lũ, các bộ có số loài nhiều nhất là gặm nhấm
(4 loài) và dơi (15 loài), ngoài ra rừng tràm còn là nơi tụ họp của 140
loài thực vật thuộc 52 họ và 102 chi, trong đó có 22 loài cây gỗ, 25 loài cây bụi,
10 loài dây leo, 70 loài cỏ, 13 loài thủy sinh, 11 loài sinh cảnh, 78 loài thuốc
và 22 loài cây cảnh, v.v….
Màu
xanh của rừng tràm Trà Sư, ở góc nào đó, như
mang đến một niềm hy vọng để tin rằng, miền châu thổ sông Mekong nước Việt
rồi sẽ được phủ xanh không chỉ là lúa là rau, là vườn cây trái, mà còn là những
khu rừng tràm, đước, mắm, sú vẹt, dừa nước…, giữ đất, rửa mặn thau chua, là những
dòng nước phù sa màu đỏ tràn về mùa nước nổi, mà khi tôi khoát một vốc trong rừng
tràm Trà Sư thấy sao ngọt đến kỳ lạ, ngọt đến rưng rưng thương.
Nhìn
ra xa hơn, những gì miền châu thổ Mekong mà Việt Nam đang trải qua cũng giống
như ở Vịnh Chesapeake, sông Columbia, Everglades-South Florida, sông San
Joaquin, sông Colorado, sông Mississippi, the Puget South, the Netherlands và
sông Po…, sông không hiền như xưa, đất vẫn phập phồng một sớm mai biến theo con
nước xoáy, nên vẫn một nỗi lo một mai châu thổ hoang vu, nếu như hôm nay, ngay
từ lúc này, không cùng nhau kết vòng tay để yêu dòng sông, thương mảnh đất mình
sinh ra lớn lên, nuôi dưỡng các thế hệ dòng tộc trường tồn, bồi đắp làm giàu
cho đất cho sông, để cho dù sông có giận hờn chi nữa thì
vẫn là sông quê hương làm nên miền châu thổ Mekong hiền hòa, trù phú, ấm áp
tình người./.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét