...Tình yêu biến
"kẻ cắp thành soái ca - kẻ đánh cắp trái tim", biến xa mạc thành thảo
nguyên xanh và nhiều khi biến hờn giận, căm phẫn thành dĩ hoà vi quý, hơn thế thành
keo sơn. Tình yêu trong "Đá hát" có sức mạnh "biến những bình
thường trở nên phi thường, biến không thể trở thành gần gũi gắn bó... “Đá hát”
một tập thơ ý nghĩa, nhân bản và bát ngát tình để những ăp ắp trong mắt, đong
đầy nơi tim của nhân vật trữ tình với khát khao yêu và được tin yêu thánh thót
ngân nga trải rộng dài... đến với “Đá hát” là đến với những giai điệu tình yêu.
Ta thấy "đá"
nói chung là vật vô tri vô giác, con người dùng tài trí, thổi hồn vào nó sự
sáng tạo, thẩm mỹ, "đá" trở lên có "linh tính, lý tính” mang vẻ
đẹp riêng, vẻ đẹp đấy đọng lại trong cảm nhận của người đối diện ở những
"phân tầng" ý nghĩa, cảm xúc. Chính ý nghĩa, cảm xúc đó, ta thấy đá
“đỏm dáng” tự khoe vẻ đẹp, tự vút lên cất cao tiếng hát ngân nga giai điệu trầm bổng... Song hành đó là một
cảm quan khác: để sự vật hiện tượng xung quanh con người, vì những xúc cảm tịnh
tiến, những biến thiên cảm xúc, trạng thái của con người mà những hiện hữu tưởng
chừng "vô cảm", chai lì xúc cảm bỗng "vi diệu" đồng điệu,
hoan ca. Cũng vậy, “đá” trong tập thơ “Đá hát” của nhà thơ Lương Mỹ Hạnh có rất
nhiều biểu cảm, tầng nghĩa làm người đọc ngỡ ngàng trân trọng được thể như trong bài “Đá hát” cùng tên với tiêu đề tập
thơ “Đã bao đời in nhọc nhằn lên đá /... Sương trên đá/Giọt ngọt ngào, giọt cay
đắng lan xa/... Ai đã giấu tình yêu vào ngực núi/Để một ngày hồn chạm đá ngân
nga”. Hay trong “Viết trên lòng hồ” có câu “Người níu tình/ vách đá vọng tiếng
quê./... Đá còn nặng bao nỗi niềm chất chứa” Và trong nhiều bài thơ khác đều có
sự hiện diện của “đá”, như: “Những tư duy chắc như đá khó rời”, “Mùa xuân đá
cũng nảy chồi”, “Tìm con đường đá hao gầy bóng chim. “Nắng mải mê dong chơi
trên bãi đá / Đá hay nước gợn sóng?/ Đá ngỡ ngàng hóa giọt nước bay lên”. “Nắng
mải mê dong chơi trên bãi đá/ Đá hay nước gợn sóng?/Đá ngỡ ngàng hóa giọt nước
bay lên”... Đấy, đá trong “Đá hát” đẹp, sinh động “cá tính” là vậy để biết rằng
“đá” như một con người cũng biết cảm nhận có nỗi niềm riêng, biết nhọc nhằn,
cay đắng, ngọt ngào, đặc biệt biết “lan xa” những “hiện diện” đó bằng cách
“hát”.
Nhà thơ Lương Mỹ Hạnh
rất khéo, tinh tế trong việc đặt tiêu đề cho tập thơ. “Đá hát” là sự kết hợp
giữa rắn rỏi dứt khoát trần trụi và ngọt ngào lãng mạn, mộng mơ. Sự kết hợp của
chủ thể ở thế khẳng định và luôn tự khẳng định những rứt khoát và cũng rất nồng
nàn. Sự kết hợp đó trở thành hình tượng nhạc, thi ảnh đẫm sức gợi, quyến rũ,
lôi cuốn. Đồng thời qua đó một phần thể
hiện sự nhạy cảm và tâm hồn nồng ấm biết
yêu và được yêu, biết vì mình và vì người để cân bằng giữa cuộc sống thực trần
trụi hà khắc với vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, thiện lương và hết sức bay bổng. Khi
đã biết cuộc sống là hành trình của những đám mây đa màu, mây “đậu, ngỡ ngừng
trôi” nhưng không hề, mây luôn vì trời mà bay, cuộc sống cũng vậy “vì người
cũng chính vì ta” nên cứ vui, cứ ca hát
hết mình. Đây là ý nghĩa nhân văn, nhân đạo rất tích cực, rất tốt trong cuộc
sống và trong thơ văn sáng tạo nghệ thuật.
Nhan đề tập thơ cũng vì thế mà có
tên “Đá hát” chăng?!
Trong tập thơ “Đá hát”
có nhiều bài thơ mang vẻ đẹp văn hoá, khí trời núi rừng, mang cái hồn, cốt cách
của con người Tây Bắc lãng mạn, mộng mơ, rắn rỏi kiên trung, lúc đằm mặn mộc
mạc chu đáo, kín kẽ cẩn thận của con người Miền Trung nắng gió kiên cường. Vì
thế thơ của Lương Mỹ Hạnh rất ngọt ngào da diết, lãng mạn mộng mơ và có lúc lại
chỉn chu khuôn phép... nhưng đều hướng tới duy mỹ thi phẩm.
Thơ của Lương Mỹ Hạnh
như giọt sương mai của núi rừng, nó trong mát lấp lánh, lung linh diệu vợi.
"người làm thơ giống như thợ làm vườn, các bài thơ song hành với tâm
trạng, hoạt cảnh thì tương thích vốn ngôn ngữ nào, độ dài ngắn ra sao. Cây cảnh
trong vườn tương thích theo mùa, khả năng sinh tồn để cắt tỉa tạo cho cây có
dáng, có thế, có lộc... sao cho tôn hết vẻ đẹp của cây. Người làm thơ cũng vậy,
nhiều khi càng giảm từ, bớt từ là một cách "cắt tỉa" có chọn lọc, đầy
sáng tạo, giảm ngôn ngữ đấy mà tạo ra tầng tầng lớp lớp những dụ ý,
"chêm" vào đó bao ảo diệu. Thơ Mỹ Hạnh có dáng dấp đôi bàn tay thợ
làm vườn cộng thêm cái mộng mơ sáng tạo của thi sĩ nên nhiều bài thơ mang vẻ
đẹp "xum xuê mùa vụ, lộc non", ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, đằm
thắm, "tua tủa" sức sống và nhiều bài khác lại "kiêu hãnh"
với tứ thơ trắc, lời thơ rứt khoát khoẻ khoắn, âm điệu ngân vang, độ sáng của
thơ như "rạng đông bừng thoát".
Trong tập thơ “Đá hát” các bài thơ có tứ thơ nhất quán trên thứ ngôn ngữ
chọn lọc, chất lượng.
Nhân vật trữ tình trong
thơ của Mỹ Hạnh nữ tính, đảm đang, đôi khi rất mạnh mẽ, khí chất phừng phừng,
quyết đoán và rất cầu toàn. Thơ của Lương Mỹ Hạnh luôn tìm tới, đạt tới sự viên
mãn chính vì vậy sự cách tân, làm mới thơ, khoác cho thơ "chiếc áo choàng
nhiệm màu", nuôi dưỡng thơ bằng tâm hồn dung dị mộc mạc và nhiều lúc rất
"hội nhập" tân tiến. Cách ngắt câu, cách xuống dòng nhiều khi như
“dòng thác xuôi thuyền”, lúc lại như “ruộng bậc thang” đều tăp tắp...
Trong “Đá hát” có giai
điệu về ‘Tình yêu quê hương yêu đất nước”, tình yêu đó thể hiệu trong cách yêu từng tấc đất, yêu “mùi” quê
hương và xa xót với những “lát cắt khứ hồi” trong chiến tranh lưu tích sử ký
trên đất mẹ được “phả đẫm chất liệu” trong bài “Điện biên” hay “Sau đổ nát”. Tình
yêu đất nước còn trải rộng dài vương vít tới những địa điểm, danh lam thắng
cảnh mà nhà thơ đến, những nơi lưu giữ kỷ niệm đẹp mà nhà thơ nghĩ, mong. Tình
yêu đó được thể hiện bằng lời thơ ngọt ngào, trân yêu, lúc lại rạo rực, rộn rã
và nhiều khi trầm lắng như mưa xuân thấm ngấm như bài “Chiều Hà nội” tác giả
viết: Chông chênh chiều Hà Nội/Chạm góc phố mưa bay/Hương mùa thoảng lối
cũ/Chiều nhớ chiều nghiêng say”
Giai điệu yêu da diết nồng nàn được thể hiện trong tình
yêu thiên nhiên, nắm bắt, hiểu được quy luật “lật mình”, “thở dốc” hay “khó ở”
của người mẹ thiên nhiên, chỉ cần sự đổi màu khác lạ của hoa, của lá cây cũng
biết rằng có sự thay đổi khí hậu của mùa, trong bài “Mắt bão” nhà thơ viết:
“Chẳng tìm được màu hoa nông nổi/Những màu hoa cất gió thay mùa/hoa nào báo
bão/Chớm thu sang lá nhao nhác đổi mầu”. Một cảm nhận tinh tế, một quan sát tỉ
mỉ thấu đáo mới hiểu rõ nắm bắt kịp thời, và trên cả “một trái tim biết yêu”
biết thổn thức cảm nhận những “rung động”, những biến đổi đời trần, đúc rút, chưng
lọc vào thơ, để thơ “chân thực” đó mà đẹp đến nao lòng.
Thơ Lương Mỹ Hạnh nói
chung và trong “Đá hát” nói riêng phảng phất giai điệu tình buồn, nét buồn “cô
phụ”. Ở đó có sự chát chua, cay đắng, hờn giận... nó như “men rượu cay” rượu
“càng uống, càng tỉnh”, càng thương thân phận, càng nồng nàn “hôi hổi” phận
người. “yêu lắm đó và cũng buồn mênh mang” Trong “Cầu thang” nhà thơ viết “Tay
mềm /năm ngón thôi miên/Chạm vào/chín điệu/ngọt mềm/chát chua.../Cầu thang
nghiêng.../tựa lá bùa/Gái ngoan lỡ nhịp/vào chùa sinh con”. Hay trong “Đêm mùa
xuân” nhà thơ viết “Em chạm vào loang lổ những xanh rêu/Đêm mùa xuân rạn vỡ
giấc mơ đầu /Phố im ắng phập phồng mong ước hẹn!” Hay nét buồn trong “Hoa ngâu”
có “ Mình bén duyên không nợ/Cà phê đắng lên mầu/Chẳng bao giờ gặp mặt /Ai bảo
đã quen lâu?” Và nữa, trong “Hoa xuyến chi” đầy giận hờn trách cứ “giá anh còn
thủy chung như ngày cũ/thì hồn rừng đâu giấu giấc mơ hoang”.
“Đá hát” mang mang giai
điệu khát vọng của nhân vật trữ tình nồng say hương đời, hướng tới những viên
tròn, những tốt đẹp trong cuộc sống. Ở đó nhân ngã, bản ngã được “sống thật”,
yêu thật và “mơ mộng thật”. Trong “Gánh” nhà thơ viết “Chông chênh/một gánh nâu
sồng/Đất vào thành thị /nhuộm hồng ước mơ”. Còn trong “Chợ phiên” thì “Chợ phiên/bán
gió sông Đà/Người mua/tìm cái thật thà trên nương...Chợ phiên/ai tỉnh ai
say/Xin em/rót chén đắng cay kiếp người”
Tập thơ "Đá hát" của nhà thơ Lương Mỹ
Hạnh ta thấy, không chỉ có "độc ca của đá" mà các giai điệu
"thiêng" đặc vùng và song hành hội nhập văn hóa được hoà quyện ngân nga từ vẻ đẹp của giọt
sương mai, của hoa Ban, hoa Lau tinh khiết thanh trong, của “Hương chè ru ngọt
đắng chiều thảo nguyên”, của cánh chim sải bay về tổ, của tiếng Khèn “dìu dặt
hoa lá dậy hương”, của suối róc rách như tiếng đàn phiêu du... giai điệu đẹp
trong "Đá hát" lúc thánh thót mát trong, lúc mộng mơ ảo diệu, lúc mạnh
mẽ kiên cường, lúc dạn dĩ cần mẫn và lúc chất phác thảo thơm... tất cả đều tha
thiết, đều hướng tới niềm khát khao, kiêu hãnh "vuông tròn" và viên
mãn trong tình yêu với đất trời, với sử ký, với con người của nhân vật trữ tình
và rộng hơn là của nhân loại. Đây là ý nghĩa, là "sợi chỉ đỏ" nhân
văn và rất thẩm mĩ đã xuyên suốt tập thơ. Để vẻ đẹp trong mắt nhau nhiều khi
không chỉ là những viên kim cương đã được mài giũa, đánh bóng bầy trong tủ kính
tráng lệ mà vẻ đẹp được ghi nhận tôn vinh, mãn nhãn nhiều khi là những vật, những
dụng cụ thô sơ, mộc mạc, chân chất như vốn sinh ra đã vậy và nghìn năm sau vẫn
không hề đổi thay, giống như vẻ đẹp của "đá"
trong tập thơ "Đá hát"... “Đá” vốn thô sơ lắm nhưng đá hoá thân vào cỏ
cây, hoa lá, vào giọt mồ hôi cần mẫn...thì "đá" hoàn thành sứ mệnh góp
sức mình vào tiến trình của thành công. Tình yêu, con người trong "đá
hát" mộc mạc, chân chất nhưng rất đỗi lên thơ. "tình yêu mà, không
phân định ranh giới chỉ cần biết độ thơm thảo, đắm say khi yêu đến đâu mà
thôi" thì những mê đắm, ngọt ngào phiêu du đó đã làm tròn nhiệm vụ của
"những giai điệu tình". Vâng, “Đá hát” nồng nàn có “những giai điệu
tình yêu” là thế.
Mùa thu
Hà Nội 2019
Nguyễn
Thanh Huyền
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét