|
Nhà thơ NGY DO THÁI
(1940-2019)
|
“Bầy chim hồng hạc xưa bay mất/ Tiếng gáy còn đồng vọng núi xa/ Về
gì? Đâu chẳng chốn quê nhà/ Nhật nguyệt đâu ghen người tóc bạc”. Lãng vãng đâu đây thần khí của bài Hoàng Hạc Lâu xa xưa, khiến
tôi chất ngất trên hàng hàng lớp lớp những sợi tơ trời. Như vướng mắc thiên la
địa võng trong hàng ngàn bài thơ Ngy Do Thái, giao truyền tận tay tôi vào một
buổi chiều đầy phong vũ. Tôi mường tượng bóng dáng nhà thơ trong phong thái cẩn
trọng lịch thiệp và đầy nét lãng du, được chất đầy trong bốn bản thảo nhờ lưu
chuyển về thư trang Quang Hạnh. Thì ra, tận phương trời mây nước biên thùy quê
xa, một lòng ký gởi những tâm huyết suốt hơn nửa thế kỷ thơ về nơi tri ngộ…
Thời
gian bay nhảy trên mái tóc thanh tân đến ngày bàn hoàn bạch phát, quả thật nhìn
đi nhìn lại chớp nhoáng như làn chớp mơ hồ giữa khoảng không. Tất cả qua đi
không bao giờ trở lại, họa chăng chỉ còn vương vấn vài hình ảnh kỷ niệm xa mờ!
Chính vậy, tôi ngơ ngác ngồi bên bốn tác phẩm thơ của Ngy Do Thái, một người mà
suốt đời người có lúc sôi nổi trong dòng trào lưu tân hóa nghệ thuật của đầu
thập niên 60, đến hiện tại quang quả bước lên cõi hư phù mà mở rộng tâm thức hạo
nhiên với vũ trụ và đạo vị.
Cách
đây hơn 50 năm, ở một thời điểm miền Nam mở rộng cổng nhà, để đón những làn gió
sáng tạo của nền văn minh văn hóa khoa học bốn phương. Trong nước, tiếp nối
phong trào tân hóa văn nghệ khai hoang từ thời tiền chiến, nay lại đón nhận những
ý thức triết học tràn ngập, làm phong phú thêm tư tưởng sáng hóa nghệ thuật,
giúp đầy đặn sáng tác đa dạng. Ngy Do Thái nằm trong lớp người say mê năng nổ
và cật lực gom hết tinh hoa tri thức bước vào lãnh vực văn chương. Nhóm Thế Kỷ
Mới thành lập khoảng thời gian 1959-1960, quy tụ những cây viết đầy uy lực gồm
Ngy Do Thái, Mặc Lan Hoài, Song An Châu… thường xuyên xuất hiện trên các tạp
san đương thời như Văn Nghệ Học Sinh, Bông Lúa, Gió Mới, Mã Thượng… Ngy Do Thái
là cây viết đầu đàn, đa dạng…trải dài qua các báo Văn, Văn Học, Thời Nay, Đối
Thoại, Khởi Hành… với thơ, văn, kịch, kịch thơ, từ những năm 1958 đến 1975.
Thời
niên thiếu, khi còn ngồi trên ngôi trường trung học miền núi quê nhà, những
mộng mơ tuổi thơ phải chăng là định nghiệp, khiến tôi cũng tập tành du hành vào
những câu thơ tĩnh lặng cho riêng mình. Những tiếp cận si mê văn nghệ, giúp
những người tương lân gần nhau và thân nhau một cách tình cờ. Thường xuyên hò
hẹn những người làm thơ, trong những buổi trưa vắng lặng nhẹ nhàng trong công viên
bên dòng sông Hậu, ở những năm tháng cuối thập niên 50. Quây quần giữa bạn bè
thi phú, vạn hạnh nào hơn những thời khắc tương giao, ngoài những tài hoa đương
thời trước mặt như Mặc Lan Hoài, Thương Hoài Diệp, Song An Châu, Hàn Thanh, Mai
Thanh Tuyền, Nguyễn Huy Chương...mỗi người một khí phách riêng tư, sừng sững
với tương lai hiện rõ trên khuôn mặt. Mặc Lan Hoài giới thiệu Ngy Do Thái… một
nhân dáng độc đáo đa dạng trong sáng tác. Ngy Do Thái học trước tôi khoảng 1
năm, nhân dáng sĩ phu hiện rõ trên cung cách. Thật tình, sự ngưỡng mộ tài năng
đã hiện hữu từ lâu trong tôi, vì khi tôi chỉ làm thơ thì giai đoạn nầy Ngy Do
Thái hiện diện nhiều trên báo chí Đô Thành ngoài thơ còn truyện và kịch… Cái say
mê tài năng vì sự đa dạng trong sáng tạo, khiến anh em nể nang và cùng tập tành
viết lách, hy vọng cũng chan hòa trong đường nét đa dạng đó.
Bản
tính khiêm cung, đầy tâm huyết giúp Ngy Do Thái viết nhanh, tác phẩm đầy đặn
giá trị. Thời gian như gió thổi, tất cả đều trôi chảy xuôi theo dòng đời. Cái
còn cái mất, cũng chỉ là phù du. Ngy Do Thái hầu như sáng tác rất nhiều trong
suốt khoảng đường đời hơn 50 năm qua… Nhiều thi phẩm, kịch bản, truyện ngắn,
ký, kịch thơ… những sáng tác đã đưa tên tuổi ông suốt quãng đường dài trôi
nổi. Đáng tiếc, Ngy Do Thái làm thất lạc nhiều tác phẩm… điều mà khiến không
biết bao nhiêu văn nghệ sĩ khổ sở trầm cảm canh cánh trong lòng suốt cuộc sống
hóa sinh nầy.
Riêng
tôi, khi được trao tặng và đang lưu trữ
cũng gần ngàn trang thơ, truyện và kịch của nhà văn nhà thơ Ngy Do Thái - Nguyễn
Hải Thệ (4 thi phẩm: Phù Du - Thu Không - Cúc
Trùng Dương - Ào Ảnh, 1 truyện: Trong Nắng Hạ Vàng, và 5 vở kịch: Chút Gì Trống
Trong Kẽ Bàn Tay - Hư Tưởng Của Dòng Sống - Chiếc Lá Me Vàng - Tiếng Súng Trong
Đêm - Chờ Sáng…).
Tác
phẩm của người làm văn nghệ bao giờ cũng lả những bảo vật sống, trôi nổi theo
tác giả suốt quãng đời hư thực. Hình và bóng giao thoa không thể tách rời, đã
là định luật bất biến trong cõi hư phù nầy. Chính vì Ngy Do Thái hầu như chỉ
viết tay những tác phẩm thành một bản
chính thức lưu giữ, nên khi thất lạc bản thảo thì là điều tuyệt vọng vô cùng. Nên
thỉnh thoảng khi có bằng hữu tâm giao ông mới sao y vài bản gởi tặng. (Phải
chăng, muộn còn hơn không, nhờ vậy đến nay mới góp nhặt lại và giữ được những
tác phẩm kể trên).
Sự
bay nhảy ngạo nghễ trong thơ văn của thời trẻ tuổi, cũng không khác với những
tư tưởng sáng tác của hầu hết thanh niên thời trước. Trong giai đoạn du nhập
nhiều triết thuyết, nền văn minh văn hóa thế giới, và nhất là giai đoạn quê
hương trong dầu sôi lửa bỏng… ảnh hưởng rất nhiều tới tư tưởng anh em văn nghệ.
Chính vậy, khi Ngy Do Thái bước vào trường Sư Phạm Sài Gòn, (1961) hầu như tác
phẩm cũng dằn dặt trong nỗi nhớ, lưu đày trong thân phận, tuổi trẻ, tình yêu,
chiến tranh, bạn bè và sự trầm luân của con người… Sự xáo trộn trong tâm thức
được hoạt biến mãnh liệt trên sáng tác. Nhưng những gì còn sót lại trong đời
sống và lòng người, bất biến theo thời gian mới là giá trị chính thống của nghệ
thuật. Nhiều lúc, đọc lại nhiều tác phẩm anh em, khi tỉnh thức hay đang nghiêng
ngửa trong cơn say khướt, chợt ngâm nga vài câu thơ … hình như thấy không gian
thời gian ngưng đọng lại. Thơ Ngy Do Thái cũng đầy chuyển biến trong cùng một
dòng xoáy như vậy, bàng bạc trong tận cùng ngõ ngách cuộc đời, tình yêu, và
thời thế .
Thời
gian sau, bẳng đi gần mấy mươi năm gặp lại Ngy Do Thái nhẹ nhàng, khiêm dung ,
lãng du, hàm chứa phong thái đầy đạo vị. Một ấn tượng không nghi ngờ về chuyển
biến tâm thức, vắng lặng, hạnh phúc, mà tương đồng đến nhật nguyệt đâu ghen người tóc bạc, bởi sự hoác ngộ như sấm sét
đang nhoáng vào tâm linh, hóa thân trong một kỳ khu Nhất tức nhất thiết/ Nhất thiết tức nhất, và bóng dáng thi nhân
đang hiển hiện ngoài dòng chảy hư không như:
Lão hốt nhiên điếng lặng
Một niềm vui vô tận
Chảy tràn lan. Bao la
Thanh khiết. Như trăng ngà
Một dòng sông huyền bí
Đang trôi chảy. Trôi chảy
Tuôn miên man. Chan hòa
Tuôn không ngừng. Vào ta
Ta tan hòa. Rào rạt…
(Ánh trăng/ Thi tập Cúc Trùng Dương)
Thi
phẩm Cúc Trùng Dương là điển hình ghi lại cái nhìn của nhà thơ trước cái hư
không cuộc đời. Thơ ông như đang bước vào một quả vị trung đạo, vô tận vô biên
vì không có gốc rễ đâu mà nương náo, vì chớp mắt vào đời chớp mắt ra đi, chân
trời góc biển chẳng dựa vào đâu mà bền vững, chỉ tại nơi lòng mà thôi:
Thiên địa vô cùng
Trên đầu mảy lông
Nhật nguyệt trùng trùng
Trong lòng hạt bụi
(Người tới, ta về/ Thi tập Cúc Trùng Dương)
Suốt
đời người trôi nổi qua hàng bao nhiêu ngày tháng nẩy hạt vươn chồi, trái ngọt
bùi lẫn đắng cay mà sao con đường hướng tới vẫn phía trước? Ảo ảnh giăng mắc
trùng điệp quanh không gian, thì sự tịnh tiến an lạc của chân tâm đã khiến Ngy
Do Thái như muốn hoà nhập cùng thơ, muốn di chuyển linh hoạt như đi trên thập
mục ngưu đồ:
Đuôi trâu biến mất. Mênh mông cõi ngoài
Mục đồng hôm trước qua đây
Bỏ quên ngọn sáo dưới cây bên đường
(Bóng thuyền quyên xưa/ Thi tập Cúc Trùng Dương)
Thoát
khỏi bóng dáng đầy vướng mắc tục lụy ngày xưa, dòng thi ca Ngy Do Thái chuyển
động thoát ra ngoài những mênh mông hư tưởng. Những bến bờ xa xôi vô tận giờ
trả về ngàn phương với những cuồng nhiệt cháy lửa ngày nào của sắc không. Cái ẩn hiện của đạo pháp xê dịch luân chuyển
trong thi pháp, ẩn mặc trong những khuynh hướng như tiên tri trước cái hữu
nhiên với vô hư. Khiến khách viễn phương nhiều lúc nhìn thấy nhà thơ như đang
quẩy hồn thơ bước trên những sấm giảng lão đạo:
Hốt nhiên. Từ trời đất
Thênh thang cất tiếng cười
Tiếng cười màu tím ngát
Vụt nổ tung giữa đời
Trời mười phương rúng động
Bão tố dậy hắc phong
Tiếng sắt cầm lồng lộng
Núi cổ cháy bập bùng
Cồn đá xưa nát vụn
Muôn tinh cầu vỡ tung
Triệu vì sao xa rụng
Cơn hồng thủy mịt mùng
Đất cuồng quay đảo lộn
Cõi người biển xanh dâu
Bụi tiếng cười xô cuốn
Sập cầu ngang bạch hà
Biển sóng dâng muôn trượng
Đánh chìm dãy đảo xa.
(Ta nghe ta mịt mùng/ Thi tập Cúc Trùng Dương)
Luân
hồi vẫn còn giăng mắc suốt kiếp số, nên định mệnh của thơ dù đang trên
đường thiền hành, nhưng vẫn loáng thoáng
hạt bụi trăm năm ôm đất quạnh và thi
nhân đang nhìn y bát mà gói lời kinh tụng thì
coi như giấc chiêm bao thôi vậy…..
Nhà
thơ Ngy Do Thái thất tịch tại quê nhà ngày 02/12/2019 thọ 80 tuổi.
Viết
tại Thư trang Quang Hạnh
Ngô
Nguyên Nghiễm
Tiểu sử văn học: NGY DO THÁI
Nhà
thơ Ngy Do Thái tên thật là Nguyễn Hải Thệ, sanh ngày 18.4.1940 (Canh Thìn), giờ
Ngọ 12 giờ trưa.
Quê
quán tại phường Long Sơn, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
Năm
1954-1961: học sinh trường Thủ Khoa Nghĩa - Châu Đốc
Năm
1961-1962: trường Sư Phạm Sài Gòn
Ngy
Do Thái còn ký nhiều bút hiệu khác: Huyền
Dân, Dân, Phương Mai, Nguyễn Thiếu Khanh, Nguyễn, Nguyễn Viên Phương…
Tác
phẩm thơ, văn, kịch, kịch thơ… đăng trên nhiều báo chí Sài Gòn từ năm
1958-1975: Văn, Văn Nghệ Học Sinh, Bông
Lúa, Thời Nay, Gió Mới, Văn Học, Đối Thoại, Khởi Hành… Các tỉnh như: Đất Mới, Tham Dự…
Ông
mất lúc 4g20 sáng, ngày 02-12-2019 tại khóm Long Hưng 2, phường Long Sơn, thị
xã Tân Châu, tỉnh An Giang, thọ 80 tuổi. Được an táng tại quê nhà vào ngày
03-12-2019.
TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA NHÀ THƠ NGY DO THÁI:
Ngy
Do Thái Nguyễn Hải Thệ lưu trữ hơn ngàn bài thơ, được phân bố trong 4 tác phẩm
đồ sộ:
1/ Phù Du (2003)
2/ Ảo Ảnh (2004)
3/ Cúc Trùng Dương (2006)
4/ Thu Không (2009)
Ngoài
ra, những bản thảo đều viết tay mỗi tác phẩm chỉ lưu một bản duy nhất, nên
trong thời gian khốn khó ở làng quê, những tác phẩm thơ - văn - kịch thơ -
thoại kịch… của ông đã thất lạc như:
1/ Đêm Da Vàng (tuổi trẻ, quê hương, chiến
tranh)
2/ Khuyết Nguyệt Động (tình yêu, bạn bè)
3/ Buồn Phố Nhỏ (thân phận, kiếp người)
4/ Chiếc Lá Me Vàng (truyện, kịch, đối
thoại)
Những
tác phẩm thất lạc nầy, nhiều bài đăng tải trên các báo và tạp chí xưa.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét