- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
1/ Dường như đã thành qui luật của sự sáng tạo nghệ thuật - nói chung và Nghệ - Thuật - Thơ nói riêng,ấy là sự kiệm lời; Kiệm lời để khi câu chữ của một thi phẩm khép lại, vẫn dư ba, ngân nga (ngỡ như khôn dứt!) trong lòng người đọc. Và, cả người bình Thơ nữa.
Nhân loại từng
tự hào, từng kiêu hãnh về một thời đại Thơ Đường - với độ nén của câu chữ với
những thể: Thất ngôn bát cú; Tứ tuyệt (ngũ ngôn, thất ngôn)... Nhưng, cũng chính
độ nén của Thơ Đường lại đi liền với độ “ bó” của câu chữ, rồi niêm, rồi luật.
Thơ Hai-Kư của
Nhật, nếu xết về lịch sử ra đời, thì có lẽ cũng “ngang ngửa” với Thơ Đường - Theo
cảm tính - tương đối của Tôi. Nhưng, thứ thơ ra đời từ rất sớm này lại mang
những đặc điểm (cũng là phẩm chất!) rất riêng. Rất Hai-Kư-Nhật.
Tiền thân của
Hai-kư chỉ gồm 17 âm tiết (tiếng Nhật vốn đa âm), lại được sắp xếp theo 3 dòng
(có người còn cho là 3 câu), với trình tự : 5/7/5. Song, điều kỳ diệu là từ
những câu chữ rất khiêm nhường ấy lại mở ra ngỡ đến khôn cùng, mênh mang...
trong lòng độc giả về cuộc sống, sự sống cùng muôn vàn cảm suy trong thế giới
tâm tư của con người.
2/ Thơ Hai-Kư
cũng không nằm ngoài qui luật của sự sáng tạo nghệ thuật - Thơ của mọi quốc
gia, mọi dân tộc. Nghĩa là, Thiên nhiên luôn là nguồn đề tài; luôn vẫy gọi cảm
hứng của Thi nhân. Với thơ hai-Kư, khái niệm Quí - Ngữ (Ngôn từ, hình ảnh thơ
thường “chạm” tới bốn mùa của Nhật Bản và Phương Đông - trực tiếp hoặc gián
tiếp).
2/1. Quí-Ngữ
trong thơ Nhật, không chỉ dừng lại “mục sở thị” (nhìn bởi mắt). Mà, hình ảnh
thiên nhiên còn nhanh chóng “ lặn” sâu vào xúc cảm - tâm trí của nhà thơ; Để
rồi, tạo nên chất tĩnh lặng thanh tao mà thâm trầm. Tạo nên chất Thiền kỳ lạ và
mở ra trường liên tưởng - Như không có điểm dừng. Có lẽ, theo Tôi cũng bởi thế,
khi đọc Hai-Kư, từ chuyển nghĩa của lời thơ Nhật sang thơ Việt, có thể thêm
hoặc bớt lời - Miễn là vẫn giữ được tinh thần thơ, hồn thơ nguyên tác. Xin phép
được trích dẫn ra đây một vài ví dụ trong cuốn “Thơ cho bốn mùa” do Hội hữu
nghị Việt Nhật ấn hành (Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin - Năm 2008) mà Tôi là
một trong hai tác giả chính được tham gia.
- Một bài thơ
của nhà thơ Sai tô Mochiki - Bản dịch nghĩa:
“Tỉnh dậy từ giấc ngủ mùa đông
Những con ếch nhảy nhót
Trên lớp tuyết mỏng cuối cùng
Và,
Trải rộng thân chúng”
Khi chuyển sang
thơ Việt, Tôi mạnh dạn thêm một hình ảnh - một lớp nghĩa nữa, và Tôi dịch là:
“Bừng dậy sau giấc ngủ đông
Ếch mải hồn nhiên nhảy nhót
Trên lớp tuyết mỏng tan dần
Sàn nhảy rung lên lần chót”
Từ lời dịch
chuyển thành thơ ấy lại tiếp là lời bình của Tôi :
“Ếch đang hân
hoan nhảy nhót trong vũ điệu đón xuân, thì cũng là thời khắc “Lớp tuyết mỏng tan
dần”. Giản đơn thôi: băng tuyết trên sông, sau ngày đông lại được trở về với
dòng chảy hiền hòa, ấm áp. Và, như thế “trên lớp tuyết mỏng...”, cũng sắp chấm
dứt vũ điệu trên tuyết băng của những chú ếch hồn nhiên. Lời dịch thơ ở câu
cuối có sự dịch chuyển từ “lớp tuyết mỏng cuối cùng” thành một không gian mới,
cũng có thể gọi là một không gian - bản lề - khép mở - buồn vui:
“Trên lớp tuyết mỏng tan dần
Sàn nhảy rung lên lần chót”
(Thơ cho bốn mùa - Trang
84-85).
2/2. Cũng chính
bởi độ nén của câu chữ, cho nên cần cảm nhận về sự vận dụng “quí ngữ” trong thơ
Hai-Kư để diễn tả trực tiếp hoặc gián tiếp cảnh sắc thiên nhiên theo qui luật
của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Thì, khi chuyển dịch sang thơ Việt, chuyện
thêm hoặc có thể bớt là tùy thuộc vào “độ mở” trong cách cảm nhận của người
dịch chuyển. Miễn là, như đã nói ở trên vẫn giữ được tinh thần thơ, hồn thơ
nguyên tác. Xin được đưa ví dụ từ bài Hai-Kư về chủ điểm mùa xuân của Hoàng tử
Shi ki (?- 716) với phần dịch nghĩa:
“Dòng thác đổ dồn gấp gáp
Xuống những tảng đá và xung
quanh
Những cây dương xỉ nhỏ đã trổ
những chồi non
Mùa xuân đến.”
Bài thơ trên đã
được dịch thành thơ và kèm với lời bình giải (một phần trong nội dung) như sau
:
“Thác cao đổ tràn sinh lực
Nước choàng đá tảng... vây
quanh
Dương xỉ trổ đầy chồi nõn
Xuân xanh!”
“Bài thơ kết lại
trong hình ảnh với những tiếng “mùa xuân đến”. Lời dịch thơ được “co” lại trong
hai tiếng “xuân xanh!” như muốn diễn tả cái nhanh, cái mạnh, cái sung mãn tràn
đầy trong vẻ hoang sơ, tinh khôi của mùa xuân - sự sống.” (Thơ cho bốn mùa - Trang
29-30).
2/3. Các thi sĩ
Nhật làm thơ Hai-Kư, khi hướng tới thiên nhiên trong vẻ đẹp muôn hình vạn trạng
của tạo hóa - tất nhiên không dừng ở vẻ ngoài của mà tả. Quan trọng là sự lan
tỏa của sức gợi... Mà, đã là gợi ắt phải ra tinh chất riêng của thơ Phương Đông
và nhất là phải gợi ra điệu cảm, điệu Hồn -Nhật. Tôi muốn nói tới ý niệm tinh
tế mà thâm trầm trong thơ Hai-Kư - ý niệm gắn với thế giới từ thiên nhiên và
đồng thời, đồng hiện với thế giới mang sắc vẻ tâm linh gợi ra từ những bài thơ
Hai-Kư. Thế giới của thiên nhiên in đậm mầu sắc tâm linh ấy trong thơ Nhật vắt
theo thời gian, theo lịch sử Cổ-Kim của loại thơ này. Thế nên, bức tranh - tâm
cảnh của Hai-Kư cũng rộng mở nhiều chiều trong tiếp nhận, trong giải mã và liên
tưởng cho người đọc và cả người bình nữa.
Khi góp lời thẩm
bàn về vẻ đẹp riêng trong ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Tôi từng nhận định:
ca từ trong những nhạc khúc của Trịnh rất đỗi mông lung và vô cùng thân phận.
Từ cảm thức ấy, đọc để cảm nhận về thơ Hai-Kư, Tôi cũng nhận ra rằng: Thiên
nhiên trong thơ Hai-Kư nếu mang sắc mầu tâm linh thành kính hay huyền hồ hư
thực cũng không tách rời với cảm quan về Cõi - Đời - Người, về thân phận con
người. Xin được gửi trao một cảm nhận về bài thơ Hai-Kư của nữ sĩ I zu mi Shi
ki bu trước những con đom đóm chập chờn trên sông:
- Dịch nghĩa:
“Trong những con đom đóm trên sông
Tôi dường như thấy linh hồn
mình, ướt đẫm nỗi buồn,
Trào dâng niềm khát khao từ
thân thể”
- Dịch thơ:
“Đom đóm chập chờn trên sông
Chúng mang linh hồn tôi đó
Linh hồn đẫm ướt sầu vương
Tận cùng khát khao mờ tỏ”
-Và lời bình:
“... Trong trạng
thái mê tỉnh, với nỗi bi ai cực điểm, bà (Shi ki bu) như chơi vơi bởi cảm giác
thoát xác-Linh hồn của kẻ đang đớn đau, tan nát như nhập vào những con đom đóm
ẩn hiện trên sông. Thứ ánh sáng chờn vờn ẩn hiện ấy, như một tiếng tâm sự riêng
day dứt và cũng thổn thức lạ lùng. Lời thơ của Shi ki bu như cũng chập chờn
vọng về từ đường biên mong manh của hai cõi Âm - Dương: Nữ sĩ như đang thầm thì
với lòng mình hay đang gửi tâm tình chơi vơi tới một nơi nào xa xăm lắm:
“Đom đóm chập chờn trên sông
Chúng mang linh hồn tôi đó”
Lời thơ thoảng
nhẹ như hơi của gió đêm mà sao như cũng tỏa lan sang ta cảm giác rợn buồn thấm
thía.
Một điều thật kỳ
lạ, huyền bí là sự lên tiếng của linh hồn ngợp đầy buồn đau và cô đơn kia, còn
tiếp tục khai mở rất thành thực một trạng thái thiên lương, tốt lành mà chỉ
thấy có được của những con người yêu thương cuộc sống - Đấy là niềm khao khát.
Ở cả hai cực cảm xúc: đau đớn, buồn bã cùng khát khao tha thiết, được nhà thơ
tự bộc bạch một cách thành thực nhất. Và, hình như cũng gấp gáp và khẩn thiết
nhất, gửi lại cho người, cho đời :
“Linh hồn đẫm ướt sầu vương
Tận cùng khát khao mờ tỏ”.
(Thơ cho bốn mùa-Trang
206-207).
3/ Thơ Hai-Kư - sự
tiếp nhận từ phong tục tập quán gắn với lễ hội truyền thống có tự xa xưa.
Đời sống văn hóa
của mỗi dân tộc trong sự hình thành và phát triển, thường song tồn với các
phong tục, với các lễ hội truyền thống của họ.Với Nhật bản, lễ hội cổ xưa của
họ cũng thật sinh động và phong phú. Một trong số những lễ hội gần gũi, giản dị
mà cũng rất thịnh hành, rất thiêng liêng của Nhật, phải kể đến đó là Lễ Hội - Búp
Bê (Ngày mồng 3 tháng 3 - Theo lịch Nhật). Những con búp bê được những người
thợ thủ công làm bằng giấy hay bằng vải, một mặt được đặt thành kính trong các
buổi cầu nguyện của Đạo Shin tô-nguyện cầu cho sự tinh khiết trong lành, an lạc
cho con người trong cuộc sống. Một mặt khác nữa: từ hình ảnh, hình hài của
những con búp bê xinh đẹp, dễ thương... từ xa xưa, người Nhật còn muốn gửi gắm
một thông điệp tâm tình - đó là niềm tin yêu và hy vọng tốt lành, cao quý tới
những em bé gái; tới những người phụ nữ Nhật bản; tới những bà mẹ - họ sẽ mãi
mãi xưa sau là những người đẹp đẽ và cao sang. Cũng bởi thế, hình ảnh những con
búp bê xinh đẹp bằng vải, bằng giấy kia đã thực sự “vào đời” để trở thành biểu
tượng của Cái - Đẹp - Vĩnh - Hằng. Bài thơ Hai-Kư của Ma sao ka Shi ki về
“Những con búp bê giấy” mang vẻ đẹp giản dị mà sâu xa, chứa đựng ý tưởng và ý nghĩa nhân văn thấm
thía như đã gợi ra trên:
- Dịch nghĩa:
“Những búp bê giấy
Nhìn giống như thể
Chúng muốn được yêu”
(Ma sao ka Shi ki, 1867-1902).
- Dịch thơ:
“Búp bê bằng giấy
Nhìn xem
Chúng khát thèm yêu
như thật”.
- Lời bình:
“Hình ảnh những
con búp bê, vào thời Trung cổ ở Nhật gắn với tập tục, với lễ hội được định ra hàng năm (ngày3/3). Búp bê giấy
được dùng trong các buổi cầu nguyện của đạo Shin to và các buổi tẩy uế. Sau
đấy, búp bê được thả xuống sông. Như vậy, búp bê gắn với đời sống tinh thần,
gắn với thế giới tâm linh, gắn với ước nguyện đẹp đẽ, trong sáng của người xưa.
Bài thơ này của
Shi ki được đánh giá như một sự táo bạo khác thường. Sự khác thường và táo bạo
có lẽ là ở chỗ: Nhà thơ không tâm linh hóa và cũng không ngưỡng vọng hình ảnh
này như một ký thác, trao gửi...
Búp bê giấy được
nhà thơ kéo trả về với đời sống nhân sinh. Cái cách cảm nhận những “búp bê bằng
giấy” thật gần như chính hơi thở của đời người, như chính cảm giác khát thèm
được sống, được yêu thực sự. Trong con mắt đầy ưu ái và nhân văn của người nghệ
sĩ, chẳng còn có búp bê giấy nào cả. Chỉ thực sự sống động hình ảnh những búp
bê bằng da, bằng thịt - con người với nỗi khát thèm yêu đương thành thực. Và,
nhà thơ nhắc chúng ta hãy đến và rung động với một điểm nhìn thật gần :
“Nhìn xem
Chúng khát thèm
yêu
Như thật!”
(Thơ cho
bốn mùa - Trang 64-65).
4/ Vẻ đẹp trong
độ mở và sức gợi của Tinh chất-lưỡng tính trong thơ Hai-Kư.
Đề cập tới ý
niệm Tinh chất - Lưỡng tính trong thơ Hai-Kư, Tôi muốn nói tới trạng thái thuộc
về cảm xúc của các thi nhân khi diễn tả những mặt vừa trái chiều lại vừa đồng
nhất, đột hiện trong những khoảnh khắc tâm tư của mình. Chính điều đó tạo nên
vẻ đẹp riêng trong sáng tạo nghệ thuật; cũng đồng thời đem đến cho thơ Hai-Kư
sắc diện của sự giản dị, chân thật mà cũng đầy vẻ huyền ảo... đến độ ám ảnh
lòng người - trước hết là từ trái tim đa cảm, đa suy của Thi sĩ. Xin được trích
điểm ra đây hai bài thơ của hai nhà thơ mà Tôi tâm đắc bởi Tinh chất-Lưỡng
tính:
*Bài một của Ki
ka ku (1661-1707)
- Dịch nghĩa :
“Người phụ nữ này
Người đã thắp sáng đêm mùa
xuân
Con gái của tôi !(?)”
- Dịch thơ:
“Đêm xuân... Trở mình... Đêm
sáng
Trước nàng thiếu nữ kiêu
sa
Người ấy... Là con gái Ta
!(?)”
- Lời bình :
“Bài thơ như bất
chợt bùng ra trong cảm giác chập chờn say tỉnh, khi nhà thơ rạo rực mà nhận ra
một đêm huyền diệu đang kề cận bên mình - kề cận ấm áp, sáng láng như cố nhân
vậy.Ấy là khi “Đêm xuân... trở mình... đêm sáng”.
Bài thơ chuyển
từ cảm giác sang thức ngộ và ngỡ ngàng, thoáng chút sững sờ trước hình ảnh
thanh tân của một thiếu nữ hiện hữu giữa đêm xuân. Hẳn trong xúc cảm trào dâng
của nhà thơ, “đêm xuân... trở mình” như đang quyện hòa, rạo rực cùng đêm xuân -
Thiếu nữ.
Tương truyền
rằng bài thơ này ra đời trong một chuyến Ki ka ku du xuân cùng với cô con gái
ông, đang độ tuổi hoa niên. Ông đã say túy lúy và về nhà cùng cô con gái mình
trên một chiếc kiệu...
Nhà thơ ngỡ
ngàng khi nhận ra những nét đẹp đầy nữ tính của chính con gái mình… Để rồi,thi
nhân bật thốt lên tiếng lòng mình trong trạng thái kiêu hãnh, mơ màng và chập
chờn say tỉnh: “Người ấy... Là con gái ta! (?)”.
Bài thơ của Ki
ka ku là những lời gợi tình xuân, gợi niềm rạo rực tình ái đan hòa với những
xúc cảm phức điệu tự tâm hồn Người cha - Thi sĩ.”
* Bài thứ hai
của Yagi Zukichi (1898-1927).
- Dịch nghĩa:
“Tôi mò mẫm nỗi buồn như
vuốt vú
Và nếu tôi rời khỏi nỗi
buồn
Tôi sẽ chết chăng?”
- Dịch thơ:
“Đê mê mò mẫm nỗi buồn
Tôi như ve vuốt nõn nường
tuyết lê
Nỗi buồn ấy nếu rời đi
Hỏi rằng tôi sống làm chi
trên đời.”
- Lời bình (trích):
... “Người
chuyển dịch sang thơ muốn cho cái thật đi liền với cái nhã. Và, cái cụ thể mộc
mạc chuyển sang cách giãi bày gián tiếp thanh cao, nên chuyển hóa thành một cặp
lục bát. Có thể vì thế mà làm giảm đi vẻ thô ráp, chân mộc từ lời nguyên tác:
“Đê mê mò mẫm nỗi buồn/Tôi như ve vuốt nõn nường tuyết lê”.
Nỗi buồn là một
trạng thái thuộc về cảm xúc tâm tình của con người, khi con người phải gặp và
sống trong hiện trạng không bình an. Điều ấy, vốn là lẽ thường tình muôn thuở
trong sự sống của con người. Cái sự lạ lùng trong lời tâm tình này là ở chỗ,
trước hết đây là lời bộc bạch rất thành thực của nhân vật trữ tình qua lời xưng
“tôi”. Mà sao nỗi niềm buồn vốn tự có trong tâm, lại phải “mò mẫm”...
... Sự bất ngờ,
thú vị đến sững sờ, ấy là khi nhà thơ đem ra cái vế dùng để so sánh - rất gọn,
rất thật, chỉ trong ba tiếng: “Như vuốt vú”... Tìm kiếm, mò mẫm nỗi buồn hóa ra
là được sống đúng với con người thật của mình với những cảm giác đê mê ngọt
ngào tuyệt đích... Thế nên, ta mới càng hiểu một cách sâu sắc và thấm thía như
lời tuyên ngôn của nhà thơ trong câu thơ cuối:
“Nỗi buồn ấy nếu rời
đi
Hỏi rằng tôi sống làm chi trên đời.”
Có lẽ đây là một
cách khám phá và định nghĩa về con người cùng nỗi buồn độc đáo, ấn tượng đến lạ
lùng, nếu chưa muốn nói là “Độc nhất vô nhị” trong thơ ca !(?).
***
Đứng trước những
vần thơ Hai-Kư của Nhật Bản tự cổ chí kim từ bao nhiêu thế hệ nhà thơ, Tôi tự
thấy mình thật nhỏ bé như đứng trước biển lớn không tận với lớp lớp sóng xô và
trải rộng mênh mang... Bởi, loại thơ được xếp vào loại ngắn nhất thế giới này
lại mang tầm cỡ, vóc dáng của một chàng khổng lồ, giầu nội lực...
Với một chút
ngẫm ngợi để tự tìm ra cho mình chiều hướng tiếp nhận thể thơ đặc biệt và đặc
sắc này, tôi chỉ dám khơi mở bằng khả năng trực cảm (nếu có) mang sắc màu cùng
diện mạo cá nhân mà thôi.
Một số thi liệu
được vận dụng trong bài viết này cũng còn hết sức sơ giản. Chắc hẳn và chưa thể
bao quát được lượng bài Hai-Kư vô cùng dồi dào, phong phú từ xưa đến nay của
chính xứ sở hoa anh đào này; Mặt khác cũng chưa có khả năng và điều kiện bàn
tới, bàn sâu về vẻ đẹp của Hai-Kư qua các sáng tạo nghệ thuật của các thi sĩ - các
cây đại thụ của thơ ca Nhật nói chung và thơ Hai-Kư nói riêng như Mat su Ba
sho, Yosa Bu son, rồi Ma sao ka Shi ki, Yosano A kito, Sai to Mokichi... vân
vân.
Bài viết nhỏ gọn
này của tôi cũng mong muốn được đón nhận và chỉ giáo của các bậc thâm hậu về
văn hóa, về văn chương Nhật Bản cùng các bạn hiểu biết, yêu quí thơ Nhật - Đặc
biệt là thơ Hai-Kư. Xin trân trọng cảm ơn!
HÀ NỘI,
26/9/2016.
Trần Trung
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét