- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Cầm MƯA
ẢO trên tay, tôi chợt nghĩ đến lẽ vô thường trong kiếp nhân sinh. Vạn vật luôn
vận động, chuyển hóa theo quy luật tự nhiên (cây cỏ, hoa lá, nắng mưa, sỏi đá,
kiếp người… còn mất). Đó là điều không ai chối cãi. Song, đọc MƯA ẢO, tôi lại ngộ ra
có một thứ luôn bất biến trong lòng tác giả, đó là tình yêu thương chân thật! Chính tình yêu thương da diết đó đã
giúp anh bật ra những tứ thơ đặc sắc với thi cách và ngôn ngữ rất riêng, góp thêm
hương sắc cho nền văn học quê nhà. Những hoài niệm, nhớ thương, tiếc nuối là
trạng thái xuyên suốt liên kết chặt chẽ nhiều bài thơ trong MƯA ẢO.
Đọc MƯA ẢO, tôi bắt gặp bên trong cốt cách phớt đời, tỉnh rụi, hóm hỉnh của
anh là sự lắng đọng nội tâm, là trái tim nồng nàn yêu thương, là sự tiếc nuối, trăn trở
khôn nguôi. Cả những điều giản đơn, nhỏ bé nhất (rễ mục, con kiến, con dế, cái
hũ, cái chai, cái lờ, cái lợp, xác lá khô, rác rến,cán chổi cùn…) cũng tồn tại
trong nỗi nhớ của anh; nỗi nhớ đôi lúc làm anh xác xơ nghiêng ngả!
Nơi con
mương đất lấp, người thợ đào lên,
“Chỉ gốc dừa
cùng rễ mục lâu năm” đã làm anh “sững sờ” rồi buồn “lặng lẽ”:
“Người đào móng hỏi tôi sao
lặng lẽ bất ngờ
Móng nhà không
đụng vào kiêng kỵ
Dưới sâu kia chỉ con mương
đời nào lấp lại
Chỉ gốc dừa cùng
rễ mục lâu năm”
(Nơi đất lấp).
Hoá ra chính cái gốc dừa và rễ mục kia là chứng tích của một thời tuổi thơ hồn nhiên của anh cũng
là một thời vất vả ruộng đồng của ba má. Ba
má anh đã “Lượm trái dừa trôi trồng gia sản
buổi ra riêng”. Má từ bao giờ “thành cây dừa ngả vào mương” để ba “buộc chiếc
xuồng cũ càng phá nước”. Hai đấng sinh thành xuất thân từ miền quê nghèo với
cây dừa, bến nước, họ đã dựa vào nhau để
sống, để vượt qua gian khó, nuôi dạy đàn con khôn lớn thành người.
Với tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ, hỏi sao tác giả không đau đến “sững sờ” khi nhớ đến
ba:
“Treo cái lợp cái lờ không dính vào điều ước/ Dính phận người không thể
vượt ra hom”. Ba mẹ không thể vượt ra khỏi cái “hom” giam giữ, cuộc sống quẩn
quanh trong vòng nghèo khó như số phận con cá đã chui hom! Chính nơi này anh đã trưởng thành trên những nặng nhọc “oằn xuống chiếc lưng” của cha
mẹ:
“Tập bơi từ trái dừa khô giỡn
sóng
Đứng trên dừa
phóng thân tập làm người lớn
Không thấy phía
sau oằn xuống chiếc lưng”.
Đúng là những câu thơ hoài niệm nhói lòng!
Khi anh đã bay xa khỏi vùng quê nghèo khó, “ra phố xá điệu đàng”, “đỏm dáng phù hoa”, anh tự nhận “Tự bao giờ tôi mất mùi bùn mẹ tôi dẫm đạp / Hết mùi cỏ lác ngã dưới phảng của cha”. Tuy anh nhận thế chứ thật ra từ sâu thẳm trái tim anh luôn đậm nét hình bóng mẹ cha cùng những lời giáo huấn:
“Má dạy vỡ lòng
lúa gạo ngọc trời cho
Tôi biết lỗi từ
hạt cơm rơi
rớt dặn dò
Ba dạy tôi ra đồng tìm cái ăn nơi cạn nước” (Hình như)
Người
quê dạy con những điều cụ thể giản đơn để con biết sống thật thà,lương thiện,
sống bằng chính sức lao động của mình,
biết hàm ơn
và biết trân quý của cải làm ra. Lời dạy
ấy đã góp phần hình thành nhân cách của anh, một con người sống có trước có sau, biết
trân quý những điều hiếu nghĩa. Nỗi vất
vả của má ba một thời để nuôi đàn con thơ khôn lớn luôn là điều nhắc nhở anh sống sao cho
xứng đáng:
“Ba tôi quáng
quàng mòn như cây phảng cùn”…
“Ba má tôi bên đèn
lật phật gió đợi hết đêm
Ôm bình minh lặng
mò mùa màng trong chân sóng
Mang chiều lạnh về
nhà bằng dầm bơi quẩn
Xuồng đầm đìa lúa
nhe nanh”.
(Nơi
đất lấp)
Bên cạnh sự vất vả của ba mẹ đi cứu lúa trong mùa nước nổi, trong lòng anh còn khắc sâu hình ảnh người mẹ ở quê. Mẹ tảo tần, chịu
thương chịu khó,mẹ luôn nhận về mình
những thiệt thòi, nhường những điều tốt đẹp, ngọt ngon cho con cháu. Qua cách dùng từ chân quê,
đậm chất Nam bộ, giàu hình ảnh, sinh
động, người má thật đáng yêu, đáng kính như đang hiện hữu trước mắt chúng ta:
“Có ai giữ giùm
không
Nơi cầm chổi cùn
Má tôi ngồi đuổi
mệt
Cho cháu con tụ về
vui tết
Gom lá đốt ngồi
canh”
(Trên
sân cũ)
Hay:
“Con cá làm được
nỗi mừng
Cất mẻ kho nổi
muối
Bỏ con tép cong
lắm lần lửa củi
Má và qua quít
chén cơm
Ngỡ má chọn mình
phần ngon
Mẻ kho cũng bưng ra hủng hỉnh
Cái lu để góc nhà
tưởng trống
Cá lớn rọng đầy!
Con xa tụ về má
chẳng ngơi
tay
Trút lu cá cho con
ăn thả cửa
Má chẳng hề cầm
đũa
No vui”
(Bên mương)
Niềm cảm xúc thật sự dâng trào khi ta đọc đến khổ thơ cuối của Bên mương:
“Giờ Tết về quê
tôi ngó ngược
xuôi
Tiếng cá quẩy lu
chỉ trong cổ tích
Nhà nhện giăng,
con mương hoang lấp
Má đâu rồi, má
ơi!”
Sống trong cảnh nhà cao cửa rộng nơi phố phường đèn hoa nhưng anh luôn đau đáu nhớ
quê xưa, miền quê một thời nghèo khó, vất vả, thiên tai:
“Những người trẻ trung như đám rễ
bần ngoi lên mặt nước
Che chắn hoài sóng vẫn lọt
vào nhà
Đạp nỗi chết chìm
Nước vẫn ào giấc ngủ”
(Mùa lụt)
Hay:
“Cái lợp cái lờ mang chiều
lặng vào hụt hữ
Cánh lưới mang hoàng hôn bủa cánh đồng”…
“Như bao người bơi trong mùa nước
linh đinh
Tôi làm chú gà giũ rong rêu
trên giề rạ mục
Nhìn phù sa đỏ lựng mỡ mầu
trôi tấp mùa sau
Rượt theo tiếng cá…”
(Mùa
lụt).
Ngày nay ở miền Tây, tốc độ nước lên trong mùa nước nổi không nhanh, hầu hết
đường xá cũng được nâng cao, nông dân biết khai thác nguồn thủy sản để mang về
lợi ích. Thuở xưa, khi con nước lớn tràn về vội vã, nước dâng cao có khi tận mái nhà, cuộc sống vùng nông thôn không ít khó
khăn, người dân không ngăn được lũ thì tìm
cách sống chung với lũ:
“Con kiến cõng đời
lên cây. Cây chìm lút đọt
Lụt dâng. Trời
thấp ngang đầu
Trời thấp nhưng trời không có đất
Em biết cõng đời
đi đâu. Ở với lụt thôi”
Để rồi phải:
“Trổ cánh én nhà,
ra vào làm cá ngợp
Sông điềm nhiên vỗ tả tuột vá (Bám)
Người
khổ, con kiến cũng… khổ:
“Đuối con kiến nhỏ
cứu mình bơi
tận lực
Bám lá khô lụt
cuốn quay vòng”.
(Bám)
Trong ký ức tác giả, nơi miền quê xa xôi còn
có những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ mà thời gian đã xoá nhoà dấu vết:
“Vẫn cũ bên mái
nhà bỏ đi
Bụi tre gai lâu
đời trẻ trung gai góc
Có xác diều tôi
nằm
Rã trong mộ lá
Tôi rớt nước mắt vào tuổi thơ mình
Ai huơ dao ruồng hoang
Cánh diều no căng
ngực gió
Bay lên, bay lên...”
(Bất
chợt quê xưa)
Cánh diều “Bay lên, bay lên” chỉ là sự tưởng tượng để bù đắp nỗi niềm
tuyệt vọng khi trước mắt anh không còn
xác cánh diều, dấu vết của tuổi thơ. Dù đó là sự đổi thay tích cực trong quá trình phát triển của xã hội nhưng làm sao anh khỏi chạnh lòng, tiếc nuối kỷ niệm ấu thơ? Để rồi anh phải “rớt nước mắt
vào tuổi thơ mình”... Nghe sao mặn đắng!
Xa quê nhưng anh có bao giờ nguôi thương nhớ. Tình
cảm ấy đã dẫn dắt bước chân anh trở lại quê nhà với tâm trạng mình luôn là người có lỗi:
“Quê nhà ơi muôn trùng độ lượng
Lạy người máu xương hoá đất, ơn
sâu
Lá nào cũng rụng
mình xuống cội
Rộng thứ giùm tôi
bất nghĩa từ lâu”.
(Hồi xứ)
Về lại quê xưa để tìm lại tuổi thơ, tưởng nhớ đấng sinh
thành, với anh ở đó còn là nơi để anh có thời gian
suy ngẫm lại sự đời và thấy “Giật mình”
cho kiếp nhân sinh ngắn ngủi:
“Nay biết thấm nơi sâu nơi cạn
Có nơi ta rời bỏ lại mong về
Bao năm chèn chỗ
ngồi chỗ đứng
Giật mình. Chưa chín một nồi kê”
(Giật
mình)
Trong MƯA
ẢO, bên cạnh những bài thơ thể hiện nỗi niềm thương nhớ người thân, quê nhà,
phần lớn những bài thơ còn lại anh dành
cho những thổn thức, luyến lưu và cả sự chua chát, đắng cay cho cuộc tình không may thời hoa mộng.
Người ta
nói “Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”. Khi phát hiện mình bị lừa trong tình yêu, anh đau như nhát chém và
không khỏi “sợ hãi” những “thật thà” gian dối của lòng người:
“Tôi vừa nhận ra
em cạn ánh nhìn
Chính lúc ấy tôi
hiểu mình đang mắc cạn
Không còn lội bơi nhẩn nha trong kho báu
tình yêu
Sợ hãi thói quen thật
thà lập lại”
(Cạn)
Dù sợ nhưng vết thương không phải dễ lành nên buộc anh vẫn nhớ, vẫn tìm về ký ức đau buồn rồi tự trách mình trong vô vọng:
“Sao tôi không
biết mệt để đầu hàng
Siêng năng sớm hôm
móc moi chi ký ức
Cứa vào trùng điệp
chỗ trống không
Rướm máu “
(Cạn)
Hay:
“Mùa xưa nay đã biệt mù
Nồng nàn chỉ trong
ký ức
Dẫu biết lòng
đường là nơi
hoa rớt
Sao cây còn đơm lá
đau?”
(Mùa trống)
Đau rồi lại muốn dứt đi, dứt đi rồi lại khóc vì tiếc nuối (?):
“Tôi đốt hong tôi bằng nhánh
nhóc mùa qua
Tôi khóc đâu mà ràn rụa mắt”.
(Mùa
đông ơi mùa đông)
Không quên được, anh lại đi tìm về nơi chốn tình
yêu, để rồi:
“Sóng vẫn không ngớt xoá nơi quăng chài mơ ước
Gió chúi tôi nát nước tìm chỉ dấu chân”
(Bãi sóng).
Khi hụp lặn trong nỗi đau, anh lại thấy mình hoá “kiến đen giữa ngổn ngang
quen thuộc”, nhưng phép mầu lại không giúp kiến đen thoát chốn nhện giăng :
“Cánh đâu để bay
lên trời
Tôi vô ra cành cụt
Bóng thành khói
cũng là đà mặt đất
Dang tay thế nào
về em lúc hụt mây”.
(Có
thể).
Bằng phương
pháp ẩn dụ, anh rất tài tình khi thể hiện
tâm trạng nhân vật.Nỗi buồn thấm sâu làm anh gần như tan chảy nhưng xuyên suốt tập thơ, ta ít khi bắt gặp
những từ ngữ quá bi thương, thảm sầu, trách cứ. Thay vào đó chỉ là những nhẹ
nhàng than thở:
“Tôi ướt át thừa bởi có lần té
vào hồ nước mắt
Tôi đang giũ
mình”…
“Mắc chi đột ngột
mưa”…
“Chỗ cả tin mưa không ngớt
Chỗ an tâm mưa cũng rớt”
(Mưa
ảo)
Cuộc tình tan để lại hồn anh đẫm ướt vì nước mắt, thế mà cơn mưa dĩ vãng cứ ào về đột ngột, làm anh đã “thừa ướt át” lại càng thêm ướt
át:
“Mưa cho tôi nhận ra tôi khô ráo ảo
Đầm đìa nỗi niềm cất giấu
Nơi vết thương tưởng không còn đùa cợt thuốc thang”
(Mưa ảo)
Đến đây anh mới chịu thú nhận sự yếu đuối trong lòng qua hình ảnh “đầm đìa”
ướt mưa mà
sự phớt lờ trong giao tiếp bên ngoài chỉ là “ khô ráo ảo”. Vậy thì “mưa ảo” hay “khô ráo ảo”? Ở trạng thái nào thì anh cũng không giấu được mình là kẻ si tình, lãng
mạn, âm thầm ôm vào lòng vết thương khó lành lặng.
Lạ! “Vết thương” đang cần “thuốc thang” chưa đủ, anh lại đi tìm gom về nhà bao ngọn gió, chất chứa bao kỷ niệm nồng
nàn, cay đắng của cuộc tình tan để tự khoét sâu thêm vết chém như một “thú đau thương”(**).
“Tôi gom góp về nhà mình
Đủ chưa bao nhiêu
ngọn gió
Đủ chưa những thở
dài triền miên
Đủ chưa vết thương
gẫy kín
Nơi vĩnh hằng tình yêu
Sao vẫn còn cợt
nhau những đám rêu
Chắp vá những nụ hôn ủ mùa đông lạnh ướt” (Chắp vá).
Ấp ủ mãi trong lòng kỷ niệm xưa để rồi anh tự “quất roi vào dại ngu” của mình cho thấm cơn đau:
“Rất nhiều lần
Tôi thấy tôi mắc
cạn trong chiếc tổ ong không còn mật
Vật vã kéo mình ra
khỏi niềm tin vừa chết
Quơ roi quất vào dại ngu”
(Rất
nhiều lần)
Đau rồi lại tìm quên trong cơn say, tìm “Mót ấm
nồng” trong chai rượu cạn. Uống rượu một mình là bài thơ thể hiện sự tận cùng
của nỗi đau được anh diễn đạt một cách tinh tế. Nỗi buồn như bóng đêm, anh cố
gắng thoát ra bằng cách cố tìm chút “nắng
trong chai rượu”. Tìm không được nắng, nên nỗi “buồn
không tan, không rã lại không chìm”. Cuối cùng anh phải chịu “tỉnh tuồng” để
thấy hết cái “điên dại “ của mình khi cả đời chỉ “Nghiêng hoài chai không”:
“Tìm nắng trong
chai rượu
Tôi uống đêm”...
“Liệt bên bàn tròn
không
Văng đâu chiếc đũa
thần
Tôi dốc chai
Mót ấm nồng khô
cạn”
“Sao như nổi hêu trên biển rượu
Buồn không tan
không rã rượu
không chìm
Tôi ngửa cổ nuốt mình..”
“Tôi không tìm
được nắng không ói được đêm
Tỉnh tuồng cho
điên dại
Nghiêng hoài chai
không”
(Uống rượu một mình)
Có khi anh tự nhận:
“Tôi tự níu tôi
giữa ơ thờ
Lắt lay trên xuồng lá mục
Chẳng nghỉ ngơi tôi như túa ngàn con mắt vào sông
Chẳng nghỉ ngơi tôi quăng chài vào ký ức”
Để rồi anh chỉ nhận lại:
“Rong rêu kéo về
trùng trùng từ giấc mơ
Tôi vẫn vô công
bao bắt dại khờ
Quăng chài nơi đất lở sông trôi nước
mắt em lấp lánh!”
(Tìm bóng)
Dù có đau nghiêng ngả, anh vẫn bình tĩnh nhận ra rồi tự chữa lành vết thương và chấp nhận mang
hoài vết sẹo:
“Tôi một mình hốt
hết bể dâu”..
“Cần cù khép vết
thương sẹo
hở
Khoả lấp những gập
ghềnh”…
(Nguội tàn)
Đọc bài thơ “Dọn mình”, tôi lại bất ngờ với
cách chuẩn bị đón tết của anh. Hình như nỗi đau đã
làm anh quên mất thời gian, khi “Thấy người quét đốt bộn bề sạch mình gặp tết”, anh mới “Hối hả” làm theo. Nhưng rồi anh đau khổ tận
cùng khi “Quẹt cà nguồn lửa cạn rướm tay”. Anh “Bực mình quăng bếp túa tro/ Quýnh quáng tết”. Có lẽ tết cho
có tết. Tình cảm như bếp tro tàn, anh nhóm lửa đến rướm máu ngón tay mà không tìm được hơi ấm ngày xưa…
Trong MƯA
ẢO, “Mừng tuổi thọ” cũng là một trong những bài thơ hay. Đây là bài thơ ngắn,
súc tích với tứ thơ rất lạ, thâm thuý!
Câu thứ 3 tác giả dùng từ khá độc đáo “Mừng người giỏi đội thời gian sống sít”.
Đọc câu 4 và 5 ta lại thấy hình ảnh cây nến nóng chảy, nhỏ từng giọt như giọt nước mắt rơi! Mừng
thọ mà sao ngọn nến lại khóc? Có lẽ đọc câu cuối ta mới hiểu ra “Tôi hỏi điều
kiêng”. Thì ra, mỗi lần mừng thọ là mỗi lần nỗi buồn len lỏi
trong lòng, là mỗi bước chân đi đến cõi vĩnh hằng mà ít
ai nghĩ tới:
“Mừng người giỏi đội thời gian
sống sít
Tôi thắp lửa cây
nến nhìn tôi lăn nước mắt
Tôi tắt lửa cây
nến cây nến nhìn tôi nước mắt chảy dài
Bên tháp bánh kem
tươm ngọt
Tôi hỏi điều
kiêng”
(Mừng thọ)
Trước
giờ, tôi quan niệm thơ là phải ngôn từ mượt mà, vần điệu nhẹ nhàng, rất thơ thì mới là thơ. Đọc MƯA ẢO, tôi chợt hiểu không phải lúc nào cũng
vậy. Thường mỗi tác giả có phong cách viết riêng, nếu không sẽ dễ lẫn vào người
khác, ảnh hưởng cách viết của “thần tượng” mình
lúc nào không hay. Với nhà thơ Phạm Nguyên Thạch thì
không.
Anh có ngôn ngữ thơ rất riêng, không bóng bẩy, hàn lâm. Mạch thơ anh tự nhiên với nhiều từ
“cũ kỹ”, mang tính địa phương (phương ngữ), nhưng hầu hết các từ anh sử dụng
vừa bình dị chân quê, vừa giàu hình ảnh,
khắc sâu được hình tượng nhân vật cũng như thể hiện được sự biến hóa phức tạp của nội tâm.
Nhiều bài thơ tác giả dẫn dắt người đọc đến những kết thúc bất ngờ, đầy cảm
xúc! (Nơi đất lấp, Bên mương, Hình như, Bất chợt quê xưa, Bám,
Cạn, Mưa ảo, Uống rượu một mình, Tìm
bóng, Mừng thọ, Dọn mình…)
Từ bài thơ đầu “Nơi đất lấp”, tôi thấy khó khăn khi tiếp cận những câu thơ đầu với
lối tả chân như văn xuôi, vần điệu hơi trúc trắc, nhưng càng đọc những khổ thơ
kế tiếp tôi càng bị lôi cuốn để đọc tiếp những bài thơ sau.
Trong bài thơ “Nơi đất lấp”, tôi ám ảnh với hai câu thơ:
“Treo cái lợp cái lờ không dính vào điều ước/ Dính phận người không thể
vượt ra hom”. Những từ rất bình dị, ngắn gọn, không thừa, không thiếu gói ghém
trong hai câu thơ nhưng gợi cho ta cả một cuộc đời lam lũ, chất phát, mòn mỏi của người nông dân quê nghèo. Anh còn rất tài tình khi gắn cái cụ thể “treo”, “dính” vào
cái trừu tượng
“điều ước”, “phận người” làm câu thơ trở nên tinh tế, gợi nhiều cảm xúc.
Trong bài Bên mương, hình ảnh bà má “Cất mẻ kho nổi
muối/Bỏ con tép cong lắm lần lửa củi/Má và qua quít chén cơm”.. “Mẻ kho cũng bưng ra hủng
hỉnh”… “Má chẳng hề cầm đũa/No vui”,
người đọc thích thú với cách dùng từ của tác giả. Anh chắt lọc những từ địa
phương, từ láy có sức gợi hình và cốt lõi
để khắc sâu hình tượng bà mẹ quê với cái tâm hồn hậu, giản đơn nhưng tình thương con cháu lại bao la vô bờ bến.
Bài “Mưa
ảo”, hai câu thơ đầu, bằng biện pháp ẩn dụ anh ví von một cách khéo léo về nỗi
đau thừa thải của mình bằng cụm từ “Tôi
thừa ướt
át..” vì đã có lần “Té vào hồ nước mắt”... Ở đây anh không
dùng từ “ngã” hay “sa” mà dùng từ “té”.
Từ “té” là từ bình dân của
Ngoài những bài trên, anh còn sử dụng biện pháp nghệ thuật này trong một số
bài thơ
khác:
“Buồn không tan
không rã cũng không chìm”
(Uống rượu một mình)
“Tôi không thể vớt
trời xanh mộng ước”
(Cạn)
“Tôi té xuống bộn
bề lâu năm chưa rã dưới chân”
(Bãi sóng)
Thơ ca
là tiếng nói của con tim, bộc lộ tâm tư cảm xúc của tác giả khi bắt gặp sự rung
động trước cuộc đời. Ngôn ngữ thơ chính là phương tiện biểu hiện cụ thể nhất
đặc trưng của thơ. Bằng nhiều biện pháp tu từ như điệp ngữ, so sánh, nhân hóa,
ẩn dụ, hoán dụ... cộng với giọng điệu, ngôn ngữ thơ rất đặc trưng của một
người con lớn lên từ sông nước quê nghèo Tây Nam bộ, nhà thơ Phạm Nguyên Thạch
đã vận dụng được điều này để làm nên “MƯA ẢO” với nhiều cung bậc
cảm xúc.
Với tôi, MƯA ẢO là tập thơ mang giá trị nghệ thuật cao, chuyển tải nội dung nhân văn
sâu sắc, để lại nhiều điều suy ngẫm cho người đọc.
Châu Phú, ngày 22/10/2022
Thảo Vi
_________________________
(*) - Mưa Ảo, Nxb Hội Nhà Văn, tập thơ của Phạm Nguyên Thạch
(**) - Ý từ bài nhạc Pháp “Cho quên thú đau thương”
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét