- Trang chủ
- |
- Giới thiệu
- |
- Quy ước
- |
- Tác giả
- |
- Thư ngỏ
- |
- Lá thư Bông Tràm
Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày 312 trang, khổ 13 x 19 cm, giá 100.000 đồng.
Đức Cố Quản cơ Trần Văn Thành vẫn lẩn khuất trong hàng ngàn anh hùng hào kiệt. Những dòng sử về Đức Ông vẫn chìm lắng trong hàng trăm ngàn trang sử của dân tộc...
Học trò được nhắc
nhớ hãy đọc về Quản cơ Trần Văn Thành trước khi đi thực tế. Học trò có thấy một
cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, có thấy một vị anh hùng mở những trại ruộng rèn binh
khí chống giặc. Rồi những cuộc khởi nghĩa khác, những trận đánh khác, những chiến
công, những hiển hách của quá nhiều những vị anh hùng khác tràn đến. Học trò thấy
đánh đấm nhiều lắm, anh hùng nhiều và xa xôi như những vì sao ở tuốt trên cao,
nhìn thấy đã mỏi mắt và học trò chỉ thèm ngủ một giấc dài như lịch sử.
Học trò ôm giấc
thèm ngủ về dinh Đức Cố Quản ở Phú Bình. Một tối học trò ngồi vây quanh người
nông dân tên Hai Mưa và những người dân lân cận. Một ai đó nói “Trên đất Đức
Ông, người hiền nhiều nhưng người như Hai Mưa không phải dễ kiếm. Viết gì đó về
anh Hai Mưa đi, một người công đức và khiêm tốn”.
Hai Mưa xua tay
“đừng viết về tôi. Mấy cô chú đi đi, sẽ thấy ngay cả những người ăn mày ngồi lê
lết bên đường cũng rất đáng khâm phục, họ tu tập nhiều lắm, có những thấu suốt
hay hơn tôi gấp trăm ngàn lần. Cô chú hãy tìm hiểu về Đức Ông sẽ thấy mình chỉ
là hột bụi. Trước khi Người xả thân chống giặc, Người đã chia hết điền sản của
mình cho dân nghèo. So với Người, mình chỉ là gì đó còn nhỏ hơn cả bụi bặm”.
Học trò hỏi những
người đang sống trên mảnh đất mà Đức Ông để lại có nghĩ như anh Mưa không?
“Tụi tôi làm chổi
bông cỏ, nghèo hơn anh Mưa nhưng cũng sống được. Nhưng dịch khổ lắm. Mọi nghề đều
có tiền trợ cấp chỉ có nghề bó chổi là không”. Từng câu nói, từng ánh mắt mang
nỗi muộn phiền giận dỗi. “Dịch như vậy, mùa lễ ngày giỗ Đức Ông, mọi người có về
không?”. Những ánh mắt chợt lóng lánh một niềm tin. “Chèn ơi cô hình dung, hàng
chục tấn dừa, mấy trăm giạ nếp. Hàng trăm người ngồi gói bánh tét. Cái nhà ăn
này lúc đầu nhỏ xíu. Anh Út nuôi cá nàng hai bên đó đã hiến hơn một công rưỡi đất
làm mở nhà ăn. Từ hồi đó tới giờ ảnh giàu luôn. Đức ông phù hộ thì khỏi lo no
lo đói. Phải về cúng Đức Ông chớ”.
Khi nhắc về cơm
áo gạo tiền, người thấy mình nặng, thấy sự sống vừa chật vật, vừa nghiệt ngã bạo
tàn. Khi hướng dòng suy nghĩ về Đức Ông, người như chạm Thái Sơn và lập tức bản
thân biến hình thành những hạt bụi nhỏ nhoi, nhỏ như chưa từng tồn tại, như có thể
bay, không cần lo lắng giàu nghèo. Hàng chục tấn gạo hay hàng chục tấn dừa, tấn
chuối, rau trái hoa quả được chở tới làm vui cho lễ giỗ Đức Ông bằng những tâm
trạng nhẹ như không.
Những chị bán
cá, bó chổi, trồng rau ngồi lau lá gói bánh hay nấu cơm cho khách thập phương
cũng ở trong một trạng thái không trọng lượng. Trước giá trị thiêng liêng con
người thấy mình không là gì cả. Họ đã hóa thành một hạt năng lượng không hình
dáng, không màu sắc, không quá khứ lẫn tương lai. Những khối vô hình trong trẻo
đó bay lượn cùng nhau, hòa vào nhau trong niềm hoan hỉ.
Mỗi ngày hoặc mỗi
mùa lễ, gác lại những trọng trách oằn vai đâu đó ngoài cổng, gác lại sự cao thấp
đâu đó trong cái điện thoại hay trong bóp tiền để sâu dưới đáy giỏ, từng con
người đến bên dinh Đức Ông như trở về nơi hoang sơ nhất của lương tâm. Là từng
người gác luôn những cuộc gồng gánh mang tên “không dám ngủ”, “không dám thở”,
“không còn thời gian để ăn”… Họ gác luôn những tháng ngày chật vật với
dòng năng lượng ít ỏi đang vận hành cuộc toan tính mưu cầu. Gác luôn những đời
sống mà từng cái lá rau, từng hạt cơm trắng cũng trăn trở bởi nó nhiễm nặng
phân bón, thuốc trừ sâu.
Những cái núi
đá khổng lồ mang câu hỏi “ăn món gì cho khỏe”, “đi phương nào cho tươi tỉnh”,
“ngắm thắng cảnh nào cho hả hê” được hạ xuống nhẹ nhàng. Về dinh Đức Ông là về
lại những khoảnh khắc tan biến chính mình. Những khoảnh khắc cái tôi được miễn
trừ phận sự. Nụ cười hay không nụ cười đều không quan trọng nữa. Những phút
giây được giải phóng, tâm trạng được tự do từng lá rau, từng sợi bún được nấu
nướng bằng một trạng thái nhẹ tênh bay bổng.
Vậy rồi sau một
giấc bay bên cạnh Thái Sơn mang tên người anh hùng vô sản, người người trở về đời
thường ngồi bên cây chổi, ngồi bên những sề cá, nghe tiếng cá quẫy đuôi, người
có trở lại nặng nề không? Hẳn là có. Nhưng song hành cảm giác đó hẳn ai cũng nhớ
về một giấc thức được biến hình, được vỗ về như một sinh linh mới tượng hình.
Lòng người cảm thấy chỗ dựa tâm linh là hằng hữu. Mình cứ sống đi, cứ trôi đi
giữa dòng sân si nồng nhiệt, lúc nào cạn kiệt, lúc nào mỏi mòn đã có chốn quay
về.
“Cô chú ở đây
đi sẽ thấy vui lắm, ở đây người ta có thể chết vì mãn phần chớ không bao giờ sợ
chết vì đói. Ăn cao lương mỹ vị thì không có, chớ cơm chay ngày ba bữa no ấm tới
già cũng có người lo. Bệnh cũng có người lo. Mà có chết, chuyện hòm rương mồ mả
cũng khỏi phải bận lòng”. Anh Hai Mưa đang nói về một miền quê nghèo bên bờ
sông Hậu nhưng người nghe cứ tưởng nói về chốn thần tiên nào đó.
Học trò oằn vai
nợ đời, nợ chữ nghĩa áo cơm ngắm những dòng “bụi” đang cắm cúi nói cười, ì xèo
nhưng không trọng lượng trên đất Đức Ông bỗng thấy đời thong dong và mọi nợ nần
dường như tan biến. Đức Ông là ai mà mầu nhiệm vậy? Học trò lật lại tên ông
trong sách sử, lật lại cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa. Đức Cố Quản cơ Trần Văn Thành
vẫn lẩn khuất trong hàng ngàn anh hùng hào kiệt. Những dòng sử về Đức Ông vẫn
chìm lắng trong hàng trăm ngàn trang sử của dân tộc. Người như vì sao giữa bạt
ngàn sao trên nền trời xa vời sâu thẳm.
Nhưng ở đây,
người anh hùng với một thực thể vật chất ràng ràng đã làm một cuộc hóa thân từ
có sang không, từ giàu sang thành vô sản, không có cả nấm mộ nhưng lại trường
sinh trong tâm tưởng của vạn kiếp người. Không có cái chết của Đức Ông, chỉ có
hồn thiêng trường tồn cùng tổ tông sông núi. Khi tâm hồn học trò chạm được cõi
anh hùng thì chợt nhận ra vì sao kia không còn là một anh hùng nữa. Một chấm nhỏ
của lịch sử đã hiển thánh, đã mở ra một cõi thiêng liêng, mở một bến dừng, bến
sống chậm, bến hóa thân cho những đời người đang chìm nổi giữa dòng sân si mờ mịt.
“Cô chú thắp
nhang cùng Đức Ông đi. Ngủ bên dinh Đức Ông giấc ngủ bình an. Mơ ước điều gì cứ
nghĩ về điều đó, đừng sợ hãi. Bởi mơ ước như hột giống, mình gieo hoài thế nào
cũng gặp miếng đất tốt, cũng gặp mưa gió thuận hòa để giống nó lên cây, ra
trái. À Đức Ông không dạy tôi những điều đó. Khi tôi bươn chải nhiều, mù
mờ nhiều rồi tôi mới về đây làm hột cát bên cạnh Đức Ông, không bon chen này nọ,
tôi bình tâm nhớ lại mọi thứ đã qua rồi tự nhận ra những bài học như vậy cho
mình, cho con cháu sau này”.
Học trò ngồi
bên dinh Đức Ông, nhìn cây gáo trên sân dinh đã đứng đó suốt mấy trăm năm, suốt
từ thời Đức Ông còn sống cho tới bây giờ, nhìn dòng người lưu truyền tâm tưởng
cha ông của họ đang nói cười thanh thản, học trò như nghe trầm tích lịch sử trở
mình. Bên tai như nghe tiếng bước chân của tiền nhân lần dò trên những bãi lầy
châu thổ. Trước mắt như thấy những dáng người áo nâu lam lũ đội trời đạp đất mở
cõi phương Nam. Miệng như vẫn còn nghe được vị ngọt của hạt lúa trời trôi dập dềnh
trên con nước tràn đồng mùa lũ. Học trò nhận ra lịch sử không phải xa xôi như
những vì sao.
Lịch sử chảy rất
gần, chảy trong chính dòng khí quyển mà học trò đang thở.
VÕ DIỆU THANH
––––––––––––––
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm khi sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét