Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc luôn
luôn có những khúc quanh. Tại những khúc quanh đó tình hình xã hội thay đổi một
cách mạnh mẽ dẫn đến sự thay đổi cũng một cách mạnh mẽ trong nền văn hóa. Một
nền văn hóa cũ đang dần chết đi và một nền văn hóa mới đang dần hình thành. Tại
thời điểm ấy, trong văn học luôn luôn xuất hiện một tác phẩm xuất sắc, nó như
một cái đinh đóng vào lịch sử đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp của xã hội.
Bài thơ Ông đồ chính là một tác phẩm như thế.
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ
mới, một người đang là đại diện cho một nền văn hóa mới đang chiến thắng đứng
nhìn một nền văn hóa cũ chết dần nhưng trong ông không hề có một chút gì sự hả
hê của người chiến thắng mà ngược lại, trong ông lại đầy những trăn trở, tiếc
nuối cho những tinh hoa của nền văn hóa xưa lụi tàn.
Mỗi khi hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Hãy dừng lại ở đây! Ở hai từ “Thuê viết”
và hãy đọc lại “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Chính hai từ “Thuê viết” này
đã báo cho chúng ta biết Ông đồ chính là đại diện của một nền văn hóa đang
chết. Ngày xưa, không ai đi mua chữ. Chữ là thứ không phải để mua bán. Ta hãy
nghe lời ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”:
“Về bảo chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính
canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho
chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép
mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức
trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn
liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại
có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng
trong thiên hạ "
Người ta chỉ có thể đi xin chữ. Thế mà nay
chữ đã được bày bán ở đầu đường. Thật là chua xót!
Lời thơ mộc mạc, bình dị như một lời kể
lại chuyện xưa. Đọc lên ta như có cái cảm giác nhà thơ đang kể lại chuyện ngày
xưa mà không hề có một chút cảm xúc gì. Phải biết dừng lại! Phải suy ngẫm! Phải
liên tưởng! Ta mới nhận ra được cái tình thấm đẫm bên trong của những lời bình
dị ấy. Đấy là cái tài, biệt tài của Vũ Đình Liên. Những nhà thơ trong thời kì
ông luôn luôn tìm những cách nói tân kì, những hình ảnh đầy thơ mộng để
truyền đạt những cảm xúc của mình như: “Hỡi xuân nồng ta muốn cắn vào ngươi”
hay: “Ái ân bờ cỏ ôm chân trúc” những câu thơ như thế đọc lên người ta
biết ngay nhà thơ đã hóa thân trong xúc cảm và xúc cảm ấy của nhà thơ được
truyền ngay cho người đọc dù cho người đọc là một người bình thường, không cần
có trình độ cảm nhận văn chương một cách đặc biệt.
Ông đồ không thuộc loại những bài thơ như
thế. Bài thơ Ông đồ là loại bài thơ kén người đọc. Trong cái dưng dưng gần như
vô cảm ấy mấy ai đã nhìn ra cái trĩu nặng trong lòng người chiến thắng?
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Đọc khổ thơ này, tôi cứ cảm thấy trong khổ thơ thiêu thiếu
một cái gì. “Người thuê viết nay đâu” câu thơ được ngắt làm đôi “Người
thuê viết/ nay đâu”. Cụm từ “Người thuê viết” hai từ đầu là vần bằng, từ
cuối cùng lại là vần trắc. Chính điều đó làm cho người đọc giọng cứ cao dần lên
nhưng đến hai từ “Nay đâu” lại hoàn toàn là vần bằng làm cho người đọc
phải chùng giọng xuống chẳng khác gì một dấu hỏi hằn vào lòng người đọc. Liệu
đã có ai đi trả lời câu hỏi đó? Mua chữ đã là một điều trái khoáy nhưng người
ta không dám nói là mua mà chỉ dám nói là xin. Nhưng chữ “Tiền” là điều mà
trong một xã hội thương mại mới chớm hình thành tại các đô thị Việt Nam thời
bấy giờ là chữ mà người ta muốn mua nhất thì lại chẳng một ai dám mua lại đi
mua chữ “Tâm” chữ “Đức”. Mà chữ “Tâm” chữ “Đức” lại hình như là kẻ thù của chữ
“Tiền”. Làm gì mà chẳng “Nhưng mỗi năm mỗi vắng”
Cái tôi thấy thiếu ở đây hình như là một
dấu chấm hỏi (?) Nếu không có dấu chấm hỏi ấy, người đọc có thể hiểu đây như là
một lời cảm thán của thi nhân với số phận ngày một tăm tối của ông đồ. Nhưng
nếu ở đây có một dấu chấm hỏi (?) thì người đọc có thể đã chuyển suy tư của
mình theo một hướng khác hẳn đó là đi tìm cội nguồn của sự suy tàn ấy.
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua
Ông đồ, đại diện cho một nền văn hóa đang
tàn lụi, đang cố gắng thích ứng với một nền văn hóa mới để mà tồn tại nhưng
thật là khắc nghiệt, cái nền văn hóa mới ấy đã phủ nhận hoàn toàn nền văn hóa
cũ. Đọc bài thơ này tôi lại nhớ đến Tú Xương
Thôi có làm chi cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm panh sáng sữa bò
Tú Xương, một nạn nhân của nền văn hóa cũ
đang chết dần đau xót là một điều rất hiển nhiên nhưng Vũ Đình Liên, người đại
diện cho một nền văn hóa mới đang chiến thắng đau xót thì lại để lại cho chúng
ta biết bao điều cần phải suy ngẫm.
Văn hóa là một sự tiếp nối, kế thừa. Một
nền văn hóa mới không bao giờ được phép phủ định một nền văn hóa cũ mà nó phải
chọn lọc lấy những tinh hoa của nền văn hóa cũ phát triển lên tạo thành một
dòng chảy liên tục có như vậy mới có thể tạo thành một bản sắc văn hóa dân tộc.
Tại sao Vũ Đình Liên đau xót, thương cảm? Chúng ta chỉ có thể trả lời: “Tại vì
ông hiểu quy luật tiếp nối, kế thừa của văn hóa. Ông biết nhưng ông không làm
gì được”. Ông chỉ còn biết ngậm ngùi. Tiếc rằng ngay chính chúng ta cũng mắc
vào những sai lầm tương tự. Đã có một thời gian dài chỉ vì cái lợi ích truớc
mắt của cách mạng mà chúng ta chỉ công nhận mỗi dòng văn học hiện thực phê phán
còn nhóm các nhà thơ mới, nhóm các nhà văn lãng mạn và Vũ Trọng Phụng bị chúng
ta phủ nhận. Một thời gian dài chúng ta đã phá bỏ những chùa chiền, phá bỏ tất
cả những lễ hội dân gian. Chúng ta đã khuyến khích nhưng hành động trái với đạo
đức, văn hóa người Việt như khuyến khích con tố cáo cha, vợ tố cáo chồng trong
cải cách ruộng đất và hậu quả là hết sức bi thảm: Một xã hội đang xuống cấp về
đạo đức một cách trầm trọng không biết đến bao giờ mới khôi phục lại được.
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Khi đọc hai câu thơ này tôi thấy hai câu
thơ hay lắm nhưng viết đến hai câu thơ này tôi đã không thể lý giải được cái gì
đã làm cho hai câu thơ hay đến thế? Thoạt đầu tôi nghĩ hai câu thơ này hơi sáo,
đầy tính uớc lệ tôi đã định bỏ qua nhưng rồi một câu hỏi đã đặt ra trong tôi:
“Nếu hai câu thơ này sáo thì sao nó lại để lại trong mình một ấn tượng mạnh đến
vậy?” Không trả lời được và thế là tôi tắc tịt không thể viết tiếp được nữa.
Phải mất gần hai ngày tôi loay hoay đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy.
Giấy đỏ buồn không thắm
Câu này nếu muốn nói là hay thì ta
sẽ bảo “Tác giả đã dùng phép nhân hóa, làm cho những tờ giấy đỏ trở nên có tâm
hồn và cùng buồn với nỗi buồn của thời thế của ông đồ”. Đại loại là như vậy,
nhưng đấy là cách nói “lấy được” của mấy ông phê bình văng mạng. Theo tôi câu
thơ này rất bình thuờng và đầy tính uớc lệ. Nhưng câu “Mực đọng trong nghiên
sầu” thì khác, một câu thơ cực hay! Thoạt đầu chính chữ “Sầu” trong câu thơ này
đã đánh lừa tôi, tôi cứ nghĩ câu thơ này về bản chất là giống như câu
“Giấy đỏ buồn không thắm “ ở trên. May là bố tôi ngày truớc cũng là một ông đồ.
Hồi bé, tôi vẫn ngồi xem cụ viết câu đối trên những tờ giấy đỏ. Ngày xưa, viết
câu đối người ta dùng loại bút lông to. Mực được mài trong một cái nghiên lớn
nhưng không bao giờ mài nhiều chỉ rất ít không đủ thấm uớt toàn bộ ngọn bút (Vì
nếu đẫm mực sẽ làm thủng giấy và nét chữ bị mất những tia li ti khi gần kết
thúc một nét). Mặt khác mực tàu ngày xưa rất sánh, khi gạt ngọn bút lên miệng
chiếc nghiên phải rất lâu sau mực mới có thể lan xuống đáy nghiên. Vì vậy khi
đang viết câu đối chẳng bao giờ ta thấy mực đọng lại thành vũng trong đáy
nghiên. Vậy thì đây là một câu tả chân. Từ sáng đến giờ cụ đồ chưa hề khai bút.
Cái tài của tác giả chính là ở chữ “Sầu” một câu tả chân pha một chút nhân hóa.
Chỉ một chút thôi đã làm câu thơ khác hẳn. Đặt một câu có tính ước lệ bên
cạnh một câu tả chân . Một cặp câu thơ nguợc nhau ấy cứ như là một đôi đang
đánh đu bên nhún bên đẩy làm cả hai câu thơ cứ thế bay cao.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi baỵ
Một nỗi buồn nhè nhẹ mênh mang trong câu
thơ. Cái hay của câu thơ không phải ở ngôn từ mà ở nỗi buồn mênh mang ấy. Cái
tài của nhà thơ chính ở chỗ không hề nói đến một chữ “Buồn” mà người đọc vẫn
cảm nhận được nỗi buồn day dứt ấy
Một chiếc lá vàng tàn tạ đầu xuân nhẹ rơi
trên nền đỏ tươi của tờ giấy hồng điều tượng trưng cho một sứ sống mới mạnh mẽ
đang lên. Mưa bụi thôi! Không phải là trận bão. Đây là sự đào thải tự
nhiên của văn hóa chứ không phải là một cuộc cách mạng do những ý chí phi văn
hóa can thiệp vào như kiểu cách mạng văn hóa hay nhân văn giai phẩm. Mưa bụi
thôi! Cảnh này thê lương này chưa đến mức làm con người phải rơi nước mắt chỉ
đủ để lay động nhưng suy tư cao đẹp của con người "Qua đường không ai
hay". Cả câu thơ hoàn toàn là vần bằng làm nhịp thơ kéo dài, u uất.
Cả khổ thơ được tách làm hai phần: một phần nói về người, một phần nói về cảnh.
Và cả người và cảnh đều buồn đúng như Nguyễn Du đã nói: “Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ.” Nhưng khác với Nguyễn Du ở chỗ cái cảnh buồn thảm ở
đây không phải là cảm nhận của ông đồ mà là của thi nhân. Ông đồ buồn? Hay
thi nhân buồn? Tính nhân văn của bài thơ chính là nằm ở chỗ đó.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
“Người xưa” là những người đã chết còn
“Người cũ” Là những người chưa chết trong cuộc đời nhưng đã chết trong lịch sử.
Nhưng sao lại là “Muôn năm cũ”? Phải chăng Vũ đình Liên cho rằng : nền văn hóa
nho giáo vĩnh viễn bị đào thải trong dòng chảy của nền văn hóa việt? Nếu quả
đúng như vậy thì Vũ đình Liên đã lầm. Hết sức lầm! Sức sống của nền văn hóa
việt là hết sức mạnh mẽ. Nền văn hóa ấy nói như một vài nhà nghiên cứu đó là “
Tư tưởng tiểu nông,lúa nuốc không thể làm nổi một điều gì vĩ đại” Có thể là như
thế nhưng nền văn hóa ấy có một sức sống dai dẳng đến lạ kì. Có thể ở một giai
đoạn nào đấy, những tinh hoa của nền văn hóa việt bị chìm nghỉm trong những thứ
tân kì của văn hóa ngoại lai nhưng dần dần , theo thời gian nền văn hóa ấy âm
thầm nảy lên những mầm mới khỏe mạnh và mập mạp. Bằng chứng là những “Tân ông
đồ” đã lại xuất hiện ở những thành phố lớn của đất nước trong những ngày tết
đến
Hai câu kết nâng nỗi buồn trở thành một
nỗi ám ảnh. Những người chỉ mới vừa năm ngoái thôi năm nay đã trở thành “Muôn
năm cũ” Ông đồ chưa chắc đã chết nhưng nền văn hóa Nho giáo đã chết và
nền văn hóa ấy sẽ ở đâu trong nền văn hóa mới? Ở đâu trong lịch sử của
dân tộc?”
"Hồn ở đâu bây giờ?" - một câu
hỏi hằn mãi trong lòng người đọc và chúng ta có trách nhiệm trả lời câu hỏi ấy.
Một bài thơ bình dị, trong sáng không hề
có lấy một hình tượng to tát, không hề có một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt nào.
Lời thơ mộc mạc như một lời kể chuyện nhưng vẫn ẩn giấu những vấn đề lớn lao
của văn hóa buộc người đọc phải suy ngẫm. Một nỗi buồn thẫm đẫm trong những lời
thơ mộc mạc đó mà đọc lên bất cứ ai cũng nhận ra. Đó chính là linh hồn của bài
thơ khiến cho bài thơ sống mãi. Thế mới biết thơ cần một chữ “Tình” . Không có
chữ “Tình” thì dù ý tưởng có lớn lao đến đâu thì bài thơ cũng vẫn không
thể sống được trong lòng người đọc Việt. Và đấy cũng chính là nét khác nhau cơ
bản của người Việt Nam yêu thơ với những người yêu thơ của những quốc gia khác
trên thế giới. Và! ta viết cho ai đọc đây?
NGUYỄN THẾ DUYÊN (tác giả giữ bản quyền)
___________________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét