Tôi gặp chị Nguyệt Quế nhân Ngày thơ Việt
Nam 2013 do Hội Văn học Nghệ thuật Tây Ninh tổ chức. Trông vóc người mảnh, tầm
tầm như “rau hẹ”, cặp mắt nhanh nhẹn, giọng nói dịu và khoẻ, cái bắt tay niềm
nở, ân cần, đầy thân tình,… vậy mà khó ai tưởng nổi chị đã vượt qua được căn
bệnh hiểm nghèo ngày ấy, để rồi tiếp tục làm thơ. Và chị đã cho ra 2 tập
thơ: Trăng ngân (Nxb Thanh niên, 2007), Tóc rau hẹ (Nxb Văn học,
2012).
Trước chị vốn là một giáo viên trường Tiểu
học Phước Trạch, huyện Gò Dầu, Tây Ninh. Năm 2003 chị được địa phương giao thêm
chức vụ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã Phước Trạch. Năm 2006, chị nghỉ
hưu. Năm 2010, chị phải đến bệnh viện Ung Bướu TP.HCM trị bệnh. Nhà thơ nữ
Nguyễn Ngọc Mai, quê Trảng Bàng, là hội viên của Hội Văn học nghệ thuật thành
phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp chị điều trị. Cũng năm đó, ngày 29 Tết, Xuân
Tân Mão, anh Lê Minh Trọng (nay là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ), lúc bấy giờ
là Bí thư Huyện uỷ huyện Gò Dầu đã đến tận nhà thăm hỏi. Đươc mọi người quan
tâm, chị thấy mình không đơn độc. Như được tiếp sức, chị tiếp tục làm thơ và
tham gia nhiều công việc xã hội. Hiện chị là Phó Chủ tịch Hội Cựu Giáo chức
huyện Gò Dầu.
Cuộc đời thơ của chị cũng lắm khúc khuỷu.
Chị chẳng nhớ mình làm thơ từ bao giờ, chỉ biết là lâu lắm rồi. Trái khoáy một
điều, chồng chị không thích chị làm thơ. Vì sao? Chị ngại ngần nói thật, chỉ vì
anh sợ vợ mình bị “lãng mạn hoá” bởi thơ. Chìu chồng, chị phải tạm ngưng. Mãi
23 năm sau chị mới cầm lại bút. Là lúc chồng chị mất…Thực ra, đã là người của
thơ thì khó mà xa được thơ. Dù gát bút, nhưng thơ vẫn ẩn hiện trong đời sống
quanh chị và cả trong tình cảm của chị dành cho người chồng “ghen” với thơ ấy.
Tập thơ Tóc rau hẹ đã khơi trong
tôi nguồn cảm xúc.
Toàn tập thơ có 46 bài, chen lẫn nhiều thể
thơ: tự do, ngũ ngôn và thất ngôn tứ tuyệt, lục bát, …Câu thơ và toàn bài thơ
đa phần ngắn, mạch thơ gắn quyện nhau, kết cấu một số bài thơ theo kiểu thả
thơ, nhả chữ, tầng nấc, tạo nên những cung bậc với số lượng từ một đến ba bốn
chữ (Núi và mây, 0 giờ, Lá…), ít câu thơ có độ dài chín mười chữ (Tóc rau hẹ,
Khát vọng…).
Với tình cảm chân chất của chị gắn kết với
nơi mình sinh ra, lớn lên, rồi đồng cam cộng khổ với mẹ cha, với chồng con, cả
hai tập thơ Trăng ngân vàTóc rau hẹ đã ghi lại những gì quanh
mái tranh nghèo ấy đã lan toả và trải rộng tới các vùng quê thân yêu, rồi vươn
xa đến tận góc bể, đầu non.Những tên làng, địa danh nhà thơ đã đến, đã sống
được nhắc đến: Sông Vàm cỏ, Phước Lập, Phước Trạch, An Hoà, Lấp Vò, Châu
Phú, Châu Đốc, Đà Lạt, Phan Thiết… Nội dung là những mảng đời quen thuộc
như: Tình mẹ con, tình yêu với người thân (Ngoại ơi!), tình yêu quê
hương, tình huynh đệ, tình yêu thiên nhiên…
Cái gì đã lay động và chiếm lĩnh trong thơ
của chị? Tôi tiếp, đó có phải là những núi, mây, mùi hương của lúa, tia
nắng muộn của chiều xuống, tiếng sóng ru bờ của sông Vàm Cỏ lẫn với tiếng bìm
bịp ngẩn ngơ, đâu đó một góc quê…? Chị cười cười với cái nhìn sâu lắng và trả
lời: QUÊ HƯƠNG. Phải rồi, nơi ấy đã in đậm hình ảnh người mẹ “vớt từng ngọn hẹ
rong rêu/ Nuôi con dưới mái tranh nghèo bão giông” (Tóc rau hẹ). Mẹ
chính là quê hương vậy! Với Đỗ Trung Quân hoặc ai đó, “quê hương là chùm khế
ngọt/ Cho con trèo hái mỗi ngày”, nhưng quê hương của Nguyệt Quế là từng
ngọn rau hẹ nước, mẹ phải vất vả, bì bõm mới có được để đổi gạo nuôi con mỗi
ngày. Quê hương trong thơ Nguyệt Quế quả thật sâu đậm lạ thường, rất cụ thể, rõ
mồn một mà ai cũng thấy được và tỉm được chính mình, đặc biệt là người miền
Đông ở đất phương Nam này.
Thật hiếm hoi mới bắt gặp tình nghĩa huynh
đệ chi giao được màng đến trong thơ chị em. Bài thơ 0 giờ: 0 giờ rồi
đó em ơi !/ Tháng mười Đà Lạt/ sương rơi buốt lòng. Vì sao? Vì Không
người nâng chén đệ huynh…
Tuy nhiên, tôi lại thích tìm hiểu mảng
tình yêu nam – nữ trong tập thơ này. Với 46 bài thơ thì có 13 bài đề cập đến
tình yêu rõ nét nhất: Núi và mây, Lá, Qua bến An Hoà, Hương núi, Nơi
đó-một dòng sông, Góc quê, Niệm khúc chiều, Nhật nguyệt, Khát vọng, Nốt nhạc
buồn, Tự tình với biển, Giậu tím, Qua bến cũ.
Trước hết, tác giả mượn cảnh vật thiên
nhiên để nói đến tình yêu trai gái. Bài thơ “Núi và mây”: Núi/Vẫn ngàn
năm…/đứng đợi chờ/Mây/từ muôn thuở/kiếp lang thang. Các câu thơ có sức gợi
tả mạnh bởi cách chọn từ: Mây/Nghiêng về núi/ Núi bạc đầu.
Từ nghiêng rất gợi hình, người thưởng thơ nhận ra được hành động âu
yếm, một cái ngả đầu của người con gái vào vai người yêu, và tình yêu đã nuôi
dưỡng cho đến già. Mây – núi yêu nhau đến bạc đầu.
Bài thơ Khát vọng làm người
đọc bất ngờ. Một con người mảnh mai như nhà thơ sao lại có những tứ thơ mãnh
liệt khi diễn tả tình yêu như vậy? Đôi khi/ Anh muốn bóp nát em ra thành
trăm mảnh/Cắn vỡ em cho da thịt tan tành. Hơi thơ ta dễ thấy rất quen từ Xuân
Diệu, Bích Khê. Người đọc nhận ra sự “điên cuồng” của tình yêu qua các cặp từ
chỉ nguyên nhân- hệ quả; bóp nát… thành trăm mảnh, cắn vỡ…tan tành.
Nhưng cũng có lúc tần số của tình yêu lại
nhẹ nhàng, êm như ru: lá ủ hương đêm/ Rơi vào nỗi nhớ/ Có phải tình anh/
Đậu xuống vai mềm… (Lá), hoặc: Em thiếu anh/ Như ngày héo nắng/ Sương đầu
cành ngượng ngịu đón bình minh (Nơi đó - một dòng sông)
Lời trần tình rất chân quê trong bài
thơ Giậu tím của Nguyệt Quế rất hiếm gặp trong các nhà thơ
nữ: Nhà anh vắng đàn bà/ Nhà em thiếu đàn ông/do đó, Chiều vụng khói
bếp/ Sáng ngơ ngóng ruộng đồng. Đó là lời của người phụ nữ, bạo dạn, rất thực,
điều nói ra như là một quy luật cần chắp nối, là sự hiển nhiên của muôn loài,
và con người cũng vậy.
Bên cạnh những gì tập thơ đã đem đến cho
người đọc những xúc cảm chân chất thì cũng có ý kiến băn khoăn về cách dùng từ
quá đỗi “mạnh mẽ” như trong bài Khát vọng: Đôi khi/ Anh muốn bóp nát em ra
thành trăm mảnh/Cắn vỡ em cho da thịt tan tành.
Có ý kiến cân nhắc rằng, đó là cảm giác
thực của tác giả, vì không kiềm chế được cảm xúc nên đã có sự thể hiện vụng về
khi dụng từ.
Công tâm mà nói, xét ở góc độ ngôn từ,
cách chọn từ để dựng thơ như thế không phù hợp, làm mất đi mục đích biểu đạt
cảm xúc cần hướng đến, làm chệch đi khái niệm. Biết rằng, sự rung động của trái
tim mỗi người một nhẽ, nhưng một chừng mức nào đó, nhà thơ phải tuân thủ tính
nguyên tắc của ngôn ngữ, nếu không nghiêm túc sàng lọc từ ngữ thì sẽ không đạt
được điều cần nói đến với độc giả, và toàn bài thơ bị “hỏng”.
Dù sao, tập thơ “Tóc rau hẹ” cũng đã khắc
sâu trong bạn đọc cái tình đậm đà qua nhiều cung bậc của nhà thơ về quê hương
và con người. Có phải cái tình ấy đã trợ lực, giúp chị vượt lên số phận?
VŨ HỒNG (tác giả giữ bản quyền)
________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét