|
Trần Mai Ngân |
NGŨ
NGÔN TÌNH
Ngày không mưa không nắng
Tôi chẳng vui chẳng buồn
Thời gian không gian...lặng
Mây không trôi dừng lại
Im ắng trắng tinh khôi
Lời xa xôi không nói
Có nói cũng vậy thôi!
Ngày không Đông không Hạ
Sao sốt lạnh trong ta
Mấy cánh hoa giã biệt
Bỗng thành người lạ xa...
Thoáng mây mưa đã qua
Hai bàn tay rỗng tuếch
Bám tìm vào không trung
Tưởng mộng cũ trùng phùng...
Trần Mai Ngân
27-11-2017
Trước hết, đọc cài đầu đề của bài thơ là “Ngũ Ngôn Tình” cho
ta hiểu đây là thứ ngôn ngữ của tình yêu. “Ngũ Ngôn Tình” hiểu theo nghĩa hẹp
là bài thơ sáng tác theo thể ngũ ngôn (năm chữ) nói về tình yêu. “Ngũ Ngôn Tình”
hiểu theo nghĩa rộng là 5 thứ ngôn ngữ có trong kho báu của tâm hồn để hai
người yêu nhau đem tặng nhau và làm giàu lâu đài tình ái của mình. Lời nói yêu
thương, quà tặng ý nghĩa, thời gian cho nhau, hành động cao thượng và cử chỉ
trao nhau là 5 ngôn ngữ tình yêu cần và đủ để cuộc tình thăng hoa mà các nhà
nghiên cứu đã rút ra từ kinh nghiệm tình trường, qua bao nhiêu thế hệ con
người.
Nhà thơ Trần Mai Ngân trong ẩn ý, muốn đề cập đến ngôn ngữ
đó trong quá khứ cuộc tình, thứ ngôn ngữ mà không thể lấy “tam đoạn luận” để
hiểu nó được. Cho nên khi đọc thơ “Ngũ Ngôn Tình Yêu” ta cũng không thể đi vào
thơ bằng cái suy luận “Tam Đoạn”, thứ cơ bản mà thầy đã khai trí khi ta còn ấu
trỉ mới tập tò học triết.
Thật vậy, đọc khổ đầu bài thơ, dễ có kẻ đã phản đối vì chưa
cảm thụ được cái hay của “Ngũ Ngôn Tình”:
Ngày không mưa không nắng
Tôi chẳng vui chẳng buồn
Thời gian không gian...lặng
Một nhịp sầu đang tuôn!
Có người đánh dấu hỏi ngay vào câu thơ “Một
nhịp sầu đang tuôn!”. Họ sẽ hỏi rằng:
Tâm trạng người thơ lúc ấy ”chẳng
vui, chẳng buồn” sao lại cảm nhận được “Có một nhịp sầu đang tuôn!”. Họ sẽ lý
luận rắng: “Tôi đã vô cảm ,không buồn không vui, thế thì theo “tam đoạn luận”
mọi vật quanh tôi sẽ cũng không buồn, không vui như tôi.”
Để giải thích cho hợp lý câu hỏi trên, trước hết
ta phải hiểu với nhau rằng, “chẳng vui, chẳng buồn” không phải là vô cảm. “
chẳng vui chẳng buồn” là tâm trạng xảy ra giữa sự buồn và sự vui mà thôi. Khi
Kiều ngồi trước Lầu Ngưng Bích, nàng nhớ cha mẹ, nhớ người tình, buồn cho tấm
thân của mình đến độ ngồi trên cao mà nàng nghe “Ầm ầm tiếng sóng kếu quanh ghế
ngồi”. Lúc đó mới chính là lúc Kiều như
ngất đi và trở thành vô cảm.
Ngược lại khi Kiều chẳng vui chẳng buồn,
đàn cho khách chơi hoa nghe thì nàng không thấy hứng thú gì, nhưng sự cảm nhận
thế giới chung quanh thì không mất được.
Ta hãy nghe một lần Bùi Giáng trong tâm trạng chẳng vui chẳng buồn:
Mùa xuân lại với chim về đã mỏi
Với cá về mây nước cũng lang thang
Anh nằm im nhắm con mắt mơ màng
Mở con mắt cũng mơ màng cỏ lá.
(Không đủ
gọi)
Có phải chăng nhắm con mắt hay mở con mắt
nhà thơ đều mơ màng, có nghĩa là nhà thơ đang chìm trong tâm trạng “chẳng vui
chẳng buồn”. Thế nhưng Bùi Giáng vẫn
nghe được “Mùa xuân lại với chim về đã mỏi” và “Với cá về mây nước cũng lang
thang”. Phải chăng những điều đó là “một nhịp sầu đang tuôn” mà Trần Mai Ngân
cũng như Bùi Giáng, đã nghe ở trong không gian và trong cả thời gian , nhưng
Trần Mai Ngân đã diễn đạt trong thơ mình một cách khác mà thôi.
“Chẳng vui chẳng buồn” có khi là lúc tâm
hồn trống rổng nhưng cũng có khi là lúc tâm hồn bình an nhất. Các nhà sư thiền
định, khi họ “chẳng vui chẳng buồn” là
đã đạt được sự bình an, tâm tư lắng
đọng, không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình, thực
sự vững chắc an trú trong trong hạnh phúc tỉnh lạc của mình. Lúc đó nếu ta nói
các thiền sư “chẳng vui chẳng buồn” là vô cảm thì xin lỗi, phải nói nặng một
câu là “tư duy còn ngắn”. Ai cũng biết rằng Phật và các vị Bồ Tát rong chơi
trong cõi Thường Hằng, họ “chẳng vui chẳng buồn” nhưng họ vẫn nghe “một nhịp sầu đang tuôn” trong cõi ta bà của
nhân loại trong từng phút từng giây.
Tất nhiên người viết bài nầy không bao giờ
dám dùng cái tâm trạng “chẳng vui chẳng buồn” của Trần Mai Ngân đề so với các
bậc tu hành. Thế nhưng chủ ý của người
viết là đem các vị ấy ra để minh chứng cho khổ thơ “Ngày không đông không hạ/
Tôi chẳng vui chẳng buồn/Thời gian không gian … lặng/Một nhịp sầu đang tuôn” là
một khổ thơ hay, đặt cảm xúc ngưng tụ giữa vui buồn của nội tâm mình một cách
hợp lý trong cuộc tình sầu dài năm tháng,
dài như dòng sông tuôn chảy lặng lờ qua
bao thế kỷ mà người thơ luôn nghe trong tận cùng tâm cảm của mình dầu đã đóng
cả cửa tâm hồn mình lại.
Qua hai khổ thơ sau, nhà thơ Trần Mai Ngân
thổ lộ rõ hơn nữa, cái “chẳng vui chẳng buồn” chính là sự hờn giận, trách móc chất chứa trong tim
yêu nhiều, yêu lắm. Ta hiểu thêm, “chẳng vui chẳng buồn” là một cách nói ý nhị của nguời con gái
đã yêu và yêu sâu đậm:
Mây không trôi dừng lại
Im ắng trắng tinh khôi
Lời xa xôi không nói
Có nói cũng vậy thôi!
Ngày không Đông không Hạ
Sao sốt lạnh trong ta
Mấy cánh hoa giã biệt
Bỗng thành người lạ xa...
Có người lấy câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
của Nguyễn Du để trách Trần Mai Ngân đã nghịch lý khi thổ lộ mình chẳng buồn chẳng vui mà lại đế cảm xúc tràn
lên trong mỗi câu thơ.
Người hiểu như thế thì chưa thấu đáo sự tác động khác nhau
giữa tâm hồn ra ngoại cảnh và ngoại cảnh vào tâm hồn.
Khi viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Nguyễn Du chỉ
đề cập đến tâm trạng của người tác động vào mắt mình khi nhìn ngoại cảnh. Thế
nhưng có khi nhờ cảnh làm cho người buồn hóa vui mà cũng có khi tại cảnh làm
cho người vui hóa buồn. Ở câu thơ trên Nguyễn Du chỉ đề cập đến cảnh bị thụ động bởi tâm trạng người.
Ngược lại tâm trạng người bị thụ động bởi cảnh thuộc về một vế khác mà Nguyễn
Du không đề cập đến.
Ở bài thơ nầy Trần Mai Ngân viết “Ngày không mưa không
nắng”, “Mây không trôi dừng lại”, “Ngày không đông không hạ” làm cho nhà thơ
nghe “Có một nhịp sầu đang tuôn” và thấy “”Hai bàn tay rỗng tuếch” là đem cảnh
tác động vào tâm hồn người, nghĩa là tâm trạng người bị thụ động bởi cảnh, khác
với việc người buồn làm cảnh buồn theo. Thế nhưng dầu tác động từ trong lòng ra
hay từ ngoại cảnh vào thì nhân vật trong thơ cũng đã có sẳn nỗi ưu tư trong
lòng, từ đó cảnh sẽ sinh tình, cho nên khi “Ngày không mưa không nắng” đã làm
cho “Tôi chẳng vui chẳng buồn”.
Nhà thơ La Thụy đã nói: “Thơ có những cái nghịch mà Hàn Mạc
Tử khi viết bài Tình Quê “Gió chiều quên ngừng lại/ Dòng nước luôn trôi đi/
Ngàn lau không tiếng nói/ Lòng anh dường đê mê”. Khi “gió chiều quên ngừng lại”
thì làm sao “ngàn lau không tiếng nói được”.
Nếu đem “Tam đoạn luận” vào đây để bình, có lẽ Hàn Mạc Tử bi
ném đá là nhà thơ ngớ ngẩn chăng? Hay là người dùng thứ tam đoạn luận đã nhầm?
Nhà thơ La Thụy viết thêm: “Thơ viết bằng tâm cảm, thể hiện tâm cảnh”.
Hiểu như thế ta sẽ thấy rằng Trần Mai Ngân đã hòa nhập tâm cảm của mình trong tâm cảnh
của vạn vật, cho tất cả đều ngưng tụ lại
bên tình yêu, nhưng tình yêu ấy không ngưng tụ, nó như dòng sông buồn vẫn tuôn
chảy tháng năm.
Khi ta đứng bên dòng sông nào đó, để tâm hồn lắng đọng cùng
với vạn vật yên bình, ta sẽ hiểu câu thơ của Trần Mai Ngân bằng tâm cảm của ta, thì sẽ thấy rằng câu thơ
vô cùng tuyệt mỹ.
Ở khổ thơ chót, vẫn trong tâm trạng không vui không buồn,
Trần Mai Ngân đã sống lại với quá khứ bằng một mơ ước rất hảo huyền:
Thoáng mây mưa đã qua
Hai bàn tay rỗng tuếch
Bám tìm vào không trung
Tưởng mộng cũ trùng phùng...
Chỉ “Mộng cũ trùng phùng thôi” còn tình cũ chắc không bao
giờ quay lại!
Nhà thơ đã tìm trong cái mông lung vô định của không trung
và bám vào đó bằng đôi bàn tay rỗng tuếch của mình.
Đọc như thế mỗi chúng ta đều hiểu được ý thật của câu nói
“Tôi chẳng vui chẳng buồn”.
Trần Mai Ngân nói “Tôi chẳng vui chẳng buồn” bởi vì người ấy
đã “Lời xa xôi không nói”, “Mấy cánh hoa giã biệt/Bổng thành người xa lạ”. Đây
là lời của một kẻ muốn đóng con tim nhưng con tim lại cứ nghịch với mình. Con
tim ấy cứ mở ra cho dỗi hơn thổn thức, cho nỗi đau làm vạn vật ngưng lại trong
tâm cảm mình, nhưng thực ra mọi vật vẫn vận hành và con tim thì tê tái, vì thế
nó mới thành thơ “Ngũ Ngôn Tình” được.
Bài thơ ngũ ngôn của Trần Mai Ngân tất nhiên không để ca
tụng thứ ngũ ngôn tình theo nghĩa làm thăng hoa cho những mối tình trai gái,
Thế nhưng nếu cuộc tình không được thụ hưởng thứ ngôn ngữ tình thăng hoa đó,
thì không khi nào nó biến thành một bài thơ được. Trần Mai Ngân đã dùng bài thơ
ngũ ngôn (5 chữ) để nói về cuộc tình có đầy đủ năm ngôn ngữ của tình ở một thuở
nào đó mà nay đã mất đi.
Bài thơ được viết sâu nhiệm trong những ẩn dụ, bằng những
ngôn từ tiềm tàng tri thức, tưởng như người thơ đóng hết ngũ quan lại nhưng
thật sự mở ra bằng ngôn ngữ tình thơ vô vàn cảm xúc.
Châu Thạch
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét