|
Võ Văn Hoa |
Tôi có người bạn văn viết về chợ thật là
độc đáo, đó là ký giả Lương Minh với quyển sách “Chợ Tỉnh Chợ Quê” có một không
hai giữa thời này. Tôi có người bạn làm bài thơ về chợ cũng tuyệt vời, đó là
nhà thơ Lê Đình Hạnh với bài thơ “Kẻ Chợ” mà mỗi lần anh đọc lên thì bạn bè
lắng nghe thích thú. Tôi cũng yêu 10 bài thơ viết về chợ của Anh Thơ, một nữ sĩ
của thập niên 40 thế kỷ trước. Ngoài ra còn rất nhiều bài thơ về chợ khác xưa
nay có thể làm cho ta thú vị.
Lần nầy, tôi lại khám phá thêm chùm thơ về
chợ quê của một tác giả mà tôi đã mến mộ từ lâu, chùm thơ viết về các chợ quê ở
tỉnh Quảng Trị, nơi quê hương thân yêu mà tôi đã gắn bó một thời tuổi trẻ. Chùm
thơ đã đem đến cho tôi những cảm xúc dạt
dào. Đó là bốn bài thơ của nhà thơ Võ Văn Hoa, một thi nhân đang ở ngay trên
quê hương Quảng Trị của mình.
Đầu tiên ta hãy đọc bài thơ “Chợ Quê”. Bài
thơ không nói chợ quê nào nhưng ai đọc cũng dễ biết rằng, tác giả nói về các
chợ quê Quảng Trị. Thế nhưng bài thơ đã phát họa những nét đặc trưng chung của
chợ quê nước ta, mộc mạc, giản dị, thấm đượm hồn người dân quê nước Việt:
CHỢ QUÊ
" Người ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa..."
Đi vô trong Huế trong Hàn
Ghé qua siêu thị vội vàng rồi ra
Ta về đi chợ quê ta
Hàng rau rau sạch...hàng quà bến sông
Đi mau kẻo chợ hết đông
Trầu têm cánh phượng ới chồng...chồng ơi!
Chợ quê đi suốt cuộc đời
Người quê buông áo nói lời tình chung
Chợ quê muôn nẻo tơ chùng!
VÕ VĂN HOA
Bài thơ chỉ có chín câu, nhưng tác giả nhắc
ta biết sự thoải mái khi dạo chợ quê, sự tinh khiết của nông sản bán ở đó cũng
như địa diểm mà dân quê thường họp chợ ở gần bến sông, gần cây cầu hay dưới một gốc đa già. Các câu
thơ “Ghé qua siêu thị vội vàng rồi ra”,
“Hàng rau sạch.. hàng quà bến sông”, “Trầu tem cánh phượng ới
chồng…chồng ơi” đánh động tâm hồn ta tưởng tượng được một khung cảnh họp chợ bán buôn đơn sơ, bình dị và đầy sự
luyến ái trong tâm hồn. Nhà thơ thật độc đáo khi để tiếng người vợ vui mừng gọi
chồng vọng lên khi thấy “Trầu tem cánh phượng”. Chỉ một câu thơ mà lột tả hết
sự chơn chất của người vợ, có thể xem như đại diện cho người phụ nữ nông thôn,
người phụ nữ ấy thật hồn nhiên khi cất tiếng gọi to chồng mình vì vui mừng thấy có trầu tem
cánh phượng. “Tem cánh phượng” cũng đại diện cho hình ảnh tình yêu trong lễ
nghi đẹp vô vàn qua phong tục miền quê còn sót lại.
Phần cuối bài thơ, nhà thơ mượn chữ “buông”
trong câu ca dao “Người ơi buông áo em ra/Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa” để lấy
chợ diễn đạt nhưng khối tình chung, những mối tình vương vấn suốt đời của trai
gái nông thôn. Những mối tình ấy, chợ đã
mang ít nhiều dấu ấn kỷ niệm trong cuộc tình của họ.
Qua bài thơ thứ hai, tác giả viết vè chợ
Cầu:
CHỢ CẦU
"Mua vôi chợ Quán chợ Cầu" (Ca
dao)
Hai
đêm nằm ở đất Gio Châu
Chẳng thấy cầu đâu lại chợ Cầu
Thấp thóang bóng chiều rơi tóc trắng
Niềm mong như thể đã xanh lâu
Vôi trắng nghìn năm lời ước hẹn
Đỏ
au cổ tích chẳng nhòa phai
Chợ Cầu giao cảm cùng sông núi
Viên mãn cho người một sớm mai.
VÕ VĂN HOA
“Ru
em em ngủ cho muồi/ Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu/ Mua vôi chợ Quán chợ Cầu/ Mua
cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh.”: Đó là câu ca dao ở vùng đất Quảng Trị có đề
cập đến chợ Cầu. Chợ Cầu như một địa danh gần gũi, đã đi vào câu hát, nuôi lớn bao tâm hồn trên mảnh đất Gio Linh tỉnh Quảng Trị. Có lẽ
nhà thơ Võ Văn Hoa đã ở lại hai đêm tại di tích của chợ Cầu ngày xưa. Chợ cầu
ngày xưa ở phía đông thị trấn Gio Linh, cách quốc lộ 1A chưa đầy 1km, kế bên di
tích quốc gia đình làng Hà Thượng. Chợ Cầu ngày nay đã được dời lên phía tây
quốc lộ 1A, là trung tâm trao đổi hàng hóa lớn nhất của Huyện Gio Linh, sầm uất
và khang trang chớ không “Vôi trắng nghìn năm/ Đỏ au cổ tích” như trong thơ của
tác giả.
Bài
thơ “Chợ Cầu” của Võ Văn Hoa là một bài thơ hoài cổ, giống như bà Huyện Thanh
Quan thấy “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” trong
bài thơ “Thăng Long Thành Hoài Cổ”. Khác với bà Huyện Thanh Quan thấy “Cảnh đó
người đây luốn đoạn trường” thì nhà thơ Võ Văn Hoa Tích cực hơn. Nhìn di tích
lịch sử tuy u trầm nhưng nhà thơ đã khám phá được một sợi dây kết hợp từ quá
khứ đến hiện tại và tương lai. Đó là niềm mong ước bao điều tốt đẹp lưu truyền
qua bao thế hệ vẫn xanh màu đá “như thể đã xanh lâu”. Đó là những ước hẹn, hay
nhưng lời thề non nước từ xưa đến nay còn trường tồn như “vôi trắng nghìn năm”.
Đó là những cảo thơm mang hồn dân tộc vẫn “Đỏ au cổ tích chẳng phai nhòa”
Nhà thơ Võ Văn Hoa nguyên là mọt nhà giáo,
với tư duy nầy đem vào bục giảng, tôi nghĩ những thế hệ học sinh của thầy sẽ có
cái nhìn mới tốt đẹp hơn, khám phá những chúc thư mà cha ông viết trong đá,
trong gạch, trong kiến trúc của đền đài, lăng tẩm, gởi lại cho hậu thế những
lời giáo huấn nghiêm khắc, những trách nhiệm với non nước mà con cháu phải làm.
Bài thơ thứ ba là bài thơ “Qua Chợ Kẻ Diên
Xưa:
QUA CHỢ KẺ DIÊN XƯA
Còn ngôi đình chứng tích với thời gian
Cây sanh cổ kể bao điều kỳ tích
Người ở dưới nôốc lên
Người từ miền trên lại
Chợ gạo cá, bốn mùa hoa trái
Cứ vây quanh Khu chợ thập thành
Tôi như người cổ sơ
Đi
chân đất đầu trần qua chợ
Thấy tráng sĩ dừng ngựa
Thấy nho sinh ghé trạm dừng chân
Cho hành trình vượt cây đa vào kinh ứng thí
Chợ Kẻ Diên xưa Vang bóng một thời
Chợ Kẻ Diên xưa Người tuyệt vọng vẫn còn
đường hy vọng
“Còn
da lông mọc còn chồi nảy cây”
Chợ Diên Sanh hôm nay Người qua chợ có vô
tình như thể
Tôi xót đắng – cây Sanh chiều tuổi xế
Như lãng quên năm tháng ở quanh mình
V.V.H.
“Trong kho tàng
ca dao tục ngữ của VN, bài ca dao chục trứng (hay bài ca dao về con gà Kẻ Diên)
được xem là một trong những bài ca dao hay nhất nói về niềm lạc quan và hi vọng.
Nhưng không phải ai cũng biết địa danh 'Kẻ Diên' trong bài ca dao này ở chỗ
nào.
“Tháng giêng tháng hai/Tháng ba, tháng bốn/Tháng khốn
tháng nạn/Đi vay đi tạm được một quan tiền/Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái/Về
nuôi, hắn đẻ ra chục trứng/Một trứng: ung/Hai trứng: ung/Ba trứng: ung/Bốn trứng:
ung/Năm trứng: ung/Sáu trứng: ung/Còn ba trứng nở ra ba con/Con diều tha/Con quạ
bắt/Con mặt cắt xơi/Chớ than phận khó ai ơi/Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”
Theo nhà báo Phạm
Xuân Dũng (Ban Văn nghệ chuyên đề, Đài PT-TH Quảng Trị) thì từ “kẻ” là một từ cổ,
giờ không còn dùng nữa nhưng có nghĩa nôm na là một vùng đất, một làng quê.
Ở Quảng Trị có Kẻ Lạng thuộc xã Hải Sơn, Kẻ Văn thuộc xã Hải
Tân, Kẻ Vịnh thuộc xã Hải Hòa (cùng thuộc H.Hải Lăng). Còn Kẻ Diên được nhắc
tới trong bài ca chính là Diên Sanh ngày nay, thuộc xã Hải Thọ (H.Hải Lăng,
Quảng Trị).”
Nhà thơ Võ Văn Hoa qua chợ Diên Sanh hôm nay nhưng tâm trí
lại nghĩ về ngôi chợ tại đây mấy trăm năm về trước có tên là Kẻ Diên. Khác với
chợ Cầu, chợ Kẻ Diên chỉ thay tên nhưng vẫn họp chợ trên nền đất cũ. Do đó nhà
thơ được nhìn những di tích xa xưa như ngôi đình, như cây sanh còn sót lại. Từ
nhưng di tích đó, gợi cho tâm hồn thi nhân lãng mạn, đã tưởng mình quay lại
tiền kiếp “như người cổ sơ/ Đi chân đất đầu trần qua chợ”. Bài thơ hay ở chổ
đó, hay ở chổ tưởng tượng và hư cấu tuyệt vời. Chợ Diên Sanh ngày nay như bao
ngôi chợ khác không có gì đáng nói. Thế nhưng, nhìn ngôi chợ Diên Sanh ngày nay
để kéo ngược thời gian, sống vào quá khứ, đứng giũa chợ Kẻ Diên ngày xưa để
“Thấy tráng sĩ dừng ngựa/ Thấy nho sinh ghé trạm dừng chân”là một cơn mơ như
hiện thực, là một ý thơ trên cả ý thơ, kéo đất kéo trời của quá khứ về trong
hiện tại, đưa không gian hiện tại về quá khứ, truyền cảm xúc đến người đọc thơ
thấy hiển hiển trong trí mình những hình ảnh sống, thực hơn phim.
Trong bài thơ “Qua Chợ kẻ Diên” nhà thơ Võ Văn Hoa có bày tỏ
một nỗi niềm “Xót đắng” vì nhà thơ nhìn “cây sanh chiều tuổi xế/ Như lãng quên
năm tháng ở quanh mình”. Đó chỉ là một sự u hoài thoáng qua khi cảm động sự
phôi pha, già cỗi đứng trước sự rộn ràng, sầm uất của sinh hoạt chợ ngày nay.
Thật ra trong tâm hồn nhà thơ, một niềm hy vọng, một sự lạc quan yêu đời, tin
tưởng vào tương lại luôn luôn đầy ắp. Vì sao ta biết? Vì câu thơ “Chợ Kẻ Diên
vang bóng một thời/ Chợ Kẻ Diên Người tuyệt vọng vẫn còn đường hy vọng” khẳng
định nhà thơ thấy được sự vượt qua, sự phục hưng, sự sống lại của ngôi chợ qua
bao nhiêu thế hệ. Rồi câu ca dao “Còn da lông mọc còn chồi nảy cây” mà tác giả
đưa vào thơ là một câu ca dao có chứa đựng yếu tố của tư tưởng triết học thường
gọi là “triết ly dân gian” hay “triết học của nhân dân lao động” phát hiện ra
bản chất, quy luật của sự sinh tồn, hiện tượng tự nhiên của cuộc sống, khẳng
định thêm nhà thơ có tâm hôn lạc quan. Bài thơ cho ta quay lại một quá khứ
thanh bình và nhìn về một tương lai với niềm hy vọng tốt đẹp.
Bài thơ thứ tư là bài thơ “Chợ Hôm”:
CHỢ HÔM
Gánh cá chiều chạy từ biển lên
Đòn gánh cong đời mẹ
Người phu già khuân miền dâu bể
Điếu thuốc Lào phả khói hoàng hôn.
*
“Gái thương chồng đang đông buổi chợ...”
Chợ Hôm có còn gì không?
Người về chợ không còn thủng thẳng
Tranh mua từng mớ cá , ngọn rau...
*
Đất nước có nhiều phiên chợ lạ.
Có người đến thấy lòng mình thanh thản
Có người đến thấy phận mình xót đắng
Chợ Hôm đắt ít , rẻ nhiều.
*
Tôi về chợ Hôm một chiều
Nắng nhạt nhòa vàng Kim Long mỹ tửu
Chợt nghĩ về dòng đời vĩnh cửu
Có người con gái đi ra
từ phía
rìa làng
VVH
Chợ Hôm: Di tích xếp hạng cấp tỉnh (14/04/2016)
Địa điểm này nằm bên bờ sông Thạch Hãn, thuộc làng Lập
Thạch, phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà; cách trung tâm thành phố khoảng 1,5km
về phía đông nam. Đây là một chợ làng được hình thành khá sớm trong lịch sử; là
nơi trao đổi hàng hóa, buôn bán của một số làng ở phía nam thành phố Đông Hà và
nhiều làng ở phía Đông bắc Triệu Phong.
Bài thơ “Chợ Hôm” được mở đầu bằng một hoạt
cảnh sống động. “Gánh cá chiều chạy từ biển lên/Đòn gánh cong đời mẹ”. Cụm từ
“đòn gánh cong đời mẹ” khiến cho hoạt cảnh không phải chỉ xảy ra trong chốc lát
mà kéo dài thời gian suốt một đời mẹ. “Người phu già khuân miền dâu bể/ Điếu thuốc lào phả khói
hoàng hôn” là câu thơ trùm lên mọi biển động của cuộc đời và u uẩn khói thuốc
lan tỏa cả không gian.
Tác giả mượn một trong hai câu ca dao “Gái
thương chồng đương đông buổi chợ/ Trai thương vợ nắng quái chiều hôm” để tán
dương tình yêu thương, sự hy sinh của
mẹ, lặn lội ở chợ trong cả mùa đông lạnh vì chồng vì con mình.
Ngược với những bài thơ trước, bài thơ nầy
tác giả có những nỗi ưu tư khi nhìn thấy
“Người về chợ không còn thủng thẳng/ Tranh mua từng mớ cá ngọn rau” mà mớ cá
ngọn rau ấy “Đắt ít, rẻ nhiều”.
Nhà thơ về chợ Hôm một chiều, ánh nắng nhạt
nhòa chiếu trên những chai rượu ngon đặc sản có nhản hiệu Kim Long, làm cho tác
giả chợt nghĩ về qua khứ xa xôi, chợt thương những người con gái bỏ làng ra đi vì
hệ lụy, vì hôn nhân, vì muốn đi tìm một bến đậu tốt hơn.
Bài thơ “Chợ Hôm” se thắt một nối buồn.
buồn vì có lẽ tên chợ là Hôm, có nghĩa là tối, và tác giả đến đó trong một buổi
chiều vàng vọt. Thế nhưng cọng với những bài thơ trên, ta thấy được tâm hồn tác
giả là một sợi dây rung lên được lắm cung đàn. Đọc “Chợ Hôm” ta thấy con tim
mình trầm lắng. Một chút xót thương cho mẹ, một chút ưu tư vì cảnh nghèo, một
chút nhớ nhung xa vời về thân phận những người con gái đi về “tứ phía, rìa làng” cho ta thứ cảm xúc
sâu lắng, xa vời. Đắng của cuộc sống và ngọt của tiếng thơ hòa quyện trong lòng
ta sắc màu thi vị,
Có lẽ tôi không nói thêm nữa đề bài thêm
dài ra vô ích. Thiết tưởng bốn bài thơ về “Chợ Quê Quảng Trị” của nhà thơ Võ
Văn Hoa có viết mấy thì cũng nói được một phần rất nhỏ mà thôi. Mục đích của
người viết là chỉ giới thiệu thơ, để người đọc đọc nó, sẽ tự thấy cai hay bằng
đồng cảm, bằng cảm nhận trực tiếp, thì sẽ thẩm thấu vào tâm hồn mình hương hoa,
thi vị được ẩn chứa trong thơ mà lời nói trở nên vô dụng. Thơ Võ Văn Hoa là một
thứ thơ trầm lắng, nhìn thấy nó như nhìn chất ngọc óng ánh dưới sông sâu trong
dòng nước trong rất trong, nhưng phải chịu nhìn mới thấy!!!
Châu
Thạch
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét