Trong muôn vàn tình cảnh, sự cầu
toàn “mười phân vẹn mười” thật khó có
đáp số? Đi trọn... cuộc tình lại càng nan giải hơn! Đó là những“ảo ảnh” mà người ngoài cuộc không sao
hiểu hết những uẩn khúc cho thi ảnh “Thấp
thoáng cánh cò”. Đây chính là nhan đề của tập thơ vừa mới chào đời cách nay
không xa (tháng 12/2018) của nữ thi sĩ Nguyễn Lập Em. Cũng như biết bao trang
bìa khác, khi đến họa sĩ Bùi Quang Vinh hầu hết đều hoa mỹ và khác vời. Anh đã
phả hồn vào đó với cả tâm tình.
Đời
có gì vui! Ngoài việc tìm đến, trò chuyện cùng với những người thơ qua những lời
chia sẻ, phân bày những gì mình ham thích, quý trọng và mến mộ. Như trước đây,
tôi đã viết về thơ của cụ Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Xuân Diệu … và đôi dòng cảm
nhận về tác phẩm Phan Võ Hoàng Nam, Mỵ Huỳnh.
Lần
này, viết về cây bút có tên tuổi đã hơn 30 năm nay: Nhà văn, thi sĩ Nguyễn Lập
Em. Kho văn thơ của chị thật đồ sộ, hơn trăm tác phẩm văn xuôi, tự sự, kể cả 10
tập thơ xuất bản từ năm 1980 đến năm 2018 với nhiều giải thưởng có giá trị. Nổi
bật nhất có tập thơ “Xin đừng ai đơn chiếc”, đoạt giải “Tập thơ hay trong 20
năm” (Văn Nghệ An Giang, 1975 – 1995). Về thể loại văn xuôi, tập truyện ngắn “Bến
nước Kinh Cùng” (2011) đã được Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn trao tặng giải A đồng hạng - Tác phẩm xuất sắc trong 30
năm (1980 – 2010).
Thơ
Nguyễn Lập Em đã cuốn hút tôi từ nét chân thực trong cách hành văn và diễn đạt
tư tưởng. Chẳng hoa mỹ, màu mè, lên gân gì cả; cũng chẳng dùng triết lý để thu
phục con tim và khối óc của mọi người, như nhiều thi sĩ khác đã thành công.
Lời
thơ rất mộc, bình dân như khẩu ngữ “rất
Nam Bộ”.
Thật
thanh đạm:
“Nỗi vui buồn
làm tôi thao thức
Nỗi nhớ
nhà… trọn vẹn yêu thương”.
Theo
tôi, sự chân thực sẽ ru hồn tất cả. Văn phong chị chẳng rôm rả, hào nhoáng, óng
ả mà luôn giữ nét sâu lắng và cô tịch. Có một thế giới riêng trong thơ tác giả.
Chúng ta cùng nhau nghe lời thơ thật chân mộc:
“Đêm phương Nam ánh lửa bập bùng
Sự
sống giấu dưới bao tầng lá mục
bình
minh là tiếng gà eo óc
mồ
hôi cha hòa cùng sương đêm
...
đất
phương Nam đêm ngày vẫy gọi
Cha
đi theo thấp thoáng cánh cò”.
(Thấp
thoáng cánh cò)
Chấp
chới cánh cò khi ẩn, khi hiện – khi có, khi không. Một thế giới tình cảm
“không” mà “có” (hữu ngã và vô ngã)... Hình tượng người cha như vị thiên thần,
dõi theo từng bước chân của các con trên những chặng đường thăng trầm để phù trợ,
để chăm lo cho đến dấu chấm hết của cuộc đời… Người cha đáng kính ấy như một tấm
gương để con soi vào đó mà trui rèn, mà tu sửa:
“Cha
của thời bùn ngập ống chân
đã
dạy con “bạc tiền như phấn thổ”
niềm
ao ước cho con biết chữ
lớn
hơn sản nghiệp đời mình”
Dường
như những lời dạy đầy tâm huyết ấy luôn thường trực trong tâm trí của tác giả.
Biết chữ để có tri thức, phát triển tốt hơn về nhân phẩm. Chắc hẳn ở nơi xa người
cha của nhà thơ sẽ rất vui khi tiếng tăm con vang bóng trong một thời. Kể cả những
lúc con thu mình dật sĩ, ôm “áng mận đào”
và vui cùng “Lan vũ nữ đến mùa lại nở”:
“Em cứ
đẹp còn ta
buồn
chút nữa
Không
thể trách thời gian vôi vữa
Em
tinh khôi, ta từng của xuân thì
…
Hoa cứ nở tưng bừng
Như
không biết có tàn phai chờ đợi…”.
Hình
như nhân vật trữ tình đã chuẩn bị cho mình một “tinh thần nhập cuộc”… để đủ sức “liễu yếu đào thơ” can trường đối mặt
với những gian truân trong duyên phận của mình. Đã nghe những lạnh lẽo, quạnh
quẽ phả vào trong một thoáng sấm sét đã đi qua trên giàn lan ấy… Để rồi… cảm thấy
chạnh lòng, đau đáu cho kiếp số. Nhưng vẫn có nét lạc quan, vui vẻ với đời:
“Lan
vũ nữ đến mùa rộ nở
rực
rỡ vàng
đẹp
và tinh khôi”
Một
cuộc tình thật trong trẻo- theo cảm nhận của tư tưởng nhân văn. Một màu tím
chung tình mong manh dù chỉ còn là đơn phương, cô tịch.
“Chấm
nhỏ của màu hoa
mà
như đời bất tận
cất
lên từ ký ức
của
kiếp nào trong ta
dịu
dàng bông súng tím
bỗng
vô cùng bao la”
(Màu tím mong manh)
Tác
giả có vẻ như đã “linh cảm” được những gì của ngày mai…
Đọc
thơ của thi sĩ Lan Đình sẽ chợt gặp “điểm nhấn” trọng âm đặt vào việc diễn tả cảm
xúc dồn nén. Hình ảnh thơ được chọn lọc, cẩn thận. Tác giả luôn dụng công để tạo
nét sống động, cho ra những đóa hoa có nét thu hút do đã phối hợp thành thạo giữa
biểu cảm với miêu tả – tự sự và bình luận.
Những
ai đã từng được lớn lên từ nhịp sống của làng quê sẽ cảm nhận được những cảm
xúc hồi tưởng. Và các chất liệu hiện thực qua các từ ngữ tự nhiên, khỏe khoắn.
Bao
giờ trong thơ của tác giả vẫn trong trẻo nét tươi sáng khi nhìn về phía trước
và kể cả mai sau:
“...Hãy sống hết những gì em có được
Nắng
gió và vòm trời trong suốt
Sẽ
cùng em nhảy múa khúc yêu đời”.
Phải
chăng tác giả luôn vui lên, vượt thoát lên trên những nỗi đau đời thường. Đồng điệu cùng với biết bao “nạn nhân” thơ, khi yếu đuối rã rời một
thời với tâm tánh nhược nhu, nhẹ khẽ?
Với
tình cảnh hòa trong cõi lòng của tác giả, chắc hẳn cứu cánh cả đời người phụ nữ
ấy cũng là hình ảnh thân thiết, gần gũi “ấp
iu nồng đượm” qua bóng dáng người mẹ, người bà và mở cuộc hành trình trở về
hồi ức:
“Quê ngoại
Vẫn
còn đó màu trời dáng núi
…Góc sân nhà mình vẫn như xưa
Con
xanh xao buồn, nhớ má
…Cứ thơ thẩn chỉ mình má biết”
(Ở
một góc sân nhà)
Trên
đây là nét độc đáo trong văn vần của chị. Đó là nét biến hóa độc thoại nội tâm,
được vận dụng lão luyện khi viết những thiên truyện ngắn: “Lẽ ra con lấy rổ hái trầu/ Lẽ ra con bắc thang…”
Nhà
nào cũng có chuyện thôi! Thế mà nhân vật trữ tình, đa sầu đa cảm ấy vẫn dậy lên
một tinh thần lạc quan, mạnh mẽ:
“Vườn Ngoại nay còn đâu
Sườn
núi xưa còn đâu
đồng
tiền khiến sao dời, vật đổi?
Con
quỳ xuống như người có tội
trước
nắm đất, Ngoại nằm yên nghỉ …
mong
tháng Tư đẹp mãi màu trời”
(Dưới bóng mẹ già tháng Tư)
Đến
bài thơ “Hỏi chuyện người nghìn năm”, khi
đến Khu Di tích Óc Eo – Thoại Sơn (mảng nhỏ trong Vương quốc Phù Nam ngày xưa, Chùa
Phật bốn tay):
“Mùa
thế gian
mùa
của những kiếp người
ta
nghe từ lòng đất Óc Eo người nghìn năm nhắn gửi
ngẫm
phận mình đời có đến trăm năm?
Câu
hỏi chất vấn hòa cùng giọng thơ, với khẩu khí hùng hồn, mạnh mẽ. -“Con người đang sống trong ảo mộng?”
Bàng
bạc rải hoa văn làm nên tính nhạc trong các thi ảnh là các biện pháp tu từ: So
sánh, hình ảnh sóng đôi, bút pháp đối lập, câu hỏi tu từ… Đặc biệt là cách gieo
vần liền trong câu so sánh:
“Như đã từng che mưa, đội nắng
như
đã từng trấn an đêm vắng
…chiếc lá bay vèo
Nghìn
năm vùi lấp
Khi
ấy chúng mình ở đâu, có gì còn mất
Cả
đời người và cả đời thơ
…Lưu Cừ còn đây dấu tích?
Thi
tứ làm nên những vần thơ đẹp. Đó là hình ảnh sóng đôi:
“Chở phù sa lên đồng
đưa
nước phèn ra biển
Ý
tưởng vụt qua trở thành miên viễn
Để
lại cho đời
Tiền
nhân cổ xưa
Ta
rồi cũng sẽ cổ xưa
(Nhớ
người đào Kinh Vĩnh Tế)
Tác
giả mạnh dạn trong nhận thức, chấp nhận “con
tạo xoay vần”. Đó cũng là thái độ sống ân nghĩa theo đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn” - “Nghiêng
mình trước người năm xưa nghĩ chuyện đào Kênh”(Nguyễn Lập Em).
Đặt
chân đến địa danh nào, hầu như tác giả cũng lưu dấu một bài thơ: “Mai Châu nhớ Quang Dũng”, “Rừng Trà Sư”,
“Lên Pha Long”, “Về Mường Khương”, “Trở lại Hiệp Xương”. Đến Mỹ Hòa Hưng,
tác giả nhắc nhở ân nghĩa, với lối viết chân mộc và nét dung dị:
“Vài trăm năm trước, cù lao hoang sơ
Cọp
sống cùng người, hiền ngoan như vậy
Thú
dữ nhớ ơn người, hàng năm giỗ quảy”
(Nghĩ trước bia đá trấn đất Cù lao
ông Hổ)
Đến
với “Rừng Trà Sư mùa xanh” nhà thơ đã
dùng thi pháp thời gian, trong ý thức sáng tác đổi mới, với những câu đơn đặc
biệt như những đoạn tối giản:
“Hoàng hôn xuống…
…Sớm mai và những ngày sau lụt
Sau
lụt…
Rừng
Trà Sư...”
Xác
định từ mạch nguồn thi tứ không thể thiếu vắng trong thơ, người thơ Nguyễn Lập
Em đã phát ngôn định nghĩa về thơ – chỉ vỏn vẹn có 4 câu nhưng đã lắng đọng lại
trong tôi biết bao điều…
“Sang trọng hay chân quê
Tình
đời đều ứa lệ
Thơ
vui hay là buồn
Vẫn
âm thầm tỏa hương”
(Ngẫm nghĩ thơ)
Hãy
nghe lời chia sẻ, đồng cảm với những bạn thơ:
“Rất may! Nếu có ai mua thơ
Bán
cũng không được nhiều tiền cho lắm
Vậy
mà nhà thơ vẫn cứ âm thầm
Thao
thức và vắt tim vắt óc”
(Email
từ phía trời xa)
Ngẫm
suy về người thơ thật cô đọng. Bút pháp dùng “nhãn tự” trong “Núi thời gian”,
khi nghĩ về người già:
“Tuổi
già, ta đứng trước núi
Lắc
đầu biết rằng đã hết thời gian”.
Tình
thái nhãn tự “lắc đầu” thay cho lời tự
cảm, tự thán có vẻ như vô vọng, trong nỗi mong manh “như chỉ mành treo chuông”. Bởi lẽ vạn vật phần lớn phải phục tùng vị
“đại thần” Thời gian...
Cảm
xúc bốc cao tất cả chỉ vì “Hoa giấy mùa
xuân” – loài hoa dễ sống, dễ hòa nhập cùng mọi người, hơn cả hoa mai, ở đâu
cũng sống được. Bông giấy “hữu sắc vô
hương” từ đầu ngõ vào đến tận sân nhà làm bạn với nữ sĩ:
“Người
đợi người bâng khuâng đầu ngõ
...Dẫu buồn vui đừng bận lòng”
Phút
giao mùa, tháng hai rồi sao? Tuổi xuân đã sắp tàn, sao vẫn thấy vỡ đôi tự thuở
nào thậm chí cả mai sau. Có một lấp lánh hiện thân về tâm trạng nuối tiếc cho
khoảnh khắc còn lại cuối đời. Mong được tình, dù một thoáng… Và nhân vật trữ
tình vẫn âm thầm ao ước và chấp nhận nửa hồn đau thương trong cô tịch:
“dù
đau khổ cũng xin đừng thiếu vắng
…bâng khuâng buồn
Xin
hãy để cho thơ!”
Tác
giả không cảm thấy đơn côi, bởi có lẽ “Người
hát rong”- ta và thơ là đôi bạn. Cho
nên ẩn mình và sống khép kín thật suy tư miên viễn.
Thi
phẩm “Thơ của người hát rong” nói với
chúng ta:
“Số
phận nào ai giống ai
…Nỗi bất hạnh lặng thầm không sao biết hết
Cuộc
đời muôn nghìn điệu nhạc
Có
cả nỗi buồn tôi đã hát ca
…Sự đểu giả đến vô cùng
Lòng
lương thiện phải đâu hiếm có
…Đồng
tiền lạnh tanh bán mua nhân phẩm con người?”
Sau
cùng, đáp số của những bài toán hóc búa trân những chông gai mà “kẻ hát rong”
đã nếm trải. Đó là gì? Phải chăng lương tri cần được đánh thức? Bởi lẽ người
thiện bao giờ thần thức vẫn không muốn phụ thuộc vào bất cứ điều gì?
“Nỗi
mất mát cứ nghiêng về phía Thiện”.
Tôi
như đồng cảm, người thiện – hiền thì phải mắc nạn… Nhưng hậu vận chắc chắn sẽ
thăng hoa? Tất nhiên không nên trao cái quyền cho phép bất cứ ai làm cho mình
đau khổ!
Thiên
đường hay địa ngục trần gian, đều do mình tự tạo cho mình mà thôi - “Bạn chính là những suy nghĩ của bạn”.
Tóm
lại, phải có sự nhạy cảm trước “những điều
trông thấy mà đau đớn lòng” (Tố Như), phải có bề dày vốn sống và đời sống nội
tâm phong phú, đa tình, đa cảm, tác giả của tập thơ “Thấp thoáng cánh cò” mới có được những câu thi vị, mượt mà, làm
rung động biết bao độc giả. Nguyên cứ gốc xuất phát từ đâu?
Đó
là sự xuất phát từ tấm lòng yêu thương chân chính đối với biết bao cảm xúc và
luôn đặt chữ “chân” lên hàng đầu
trong điểm đến của Văn học: “Chân thiện mỹ”.
Tháng 11/2019
Trần Quang Khanh
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét