Những kẻ đã tạo
nên chiến tranh, đính kèm tội ác hủy diệt biết bao niềm hạnh phúc của những trẻ
thơ, những người cha - người mẹ, những người chồng - người vợ... và cả đồng loại.
Có phải nguyên cớ ấy đã khiến con tim người mẹ rướm máu mãi không thôi! Đau
lòng quá... Người “Mẹ” ấy có phải là
Tổ quốc ta, quê hương ta một thời đại đạn bom khốc liệt, “dầu sôi lửa bỏng” vô cùng dai dẳng? Đây chính là động lực khiến tôi
đặt bút viết về tập thơ “Mẹ và người lính”
(Nxb Hội Nhà văn, 2020) của tác giả Nguyễn Ngọc Thành.
Nhan đề tập thơ
có thể hiểu nhiều nghĩa. Nghĩa gần, là người mẹ thân thuộc, đời thường của các
con. Người mẹ từng tham gia đời lính chiến. Người mẹ của “huyền thoại” từ cuộc
chiến đã một thời che chở, cưu mang, nuôi giấu cho các bộ đội của ta, bao“tình sâu nghĩa nặng”.
Một bác sỹ đặt nặng
tâm y đức, một thời phụng sự trong cuộc chiến tranh đã qua, có thể nói ngòi bút
Nguyễn Ngọc Thành đã tái hiện những câu chuyện, hình ảnh chân thật, sống động
trong từng ngõ ngách tang thương và bi hùng của cuộc chiến hơn 20 năm qua (1954
– 1975). Tôi luôn khắc ghi câu để đời của Đại thi hào Nguyễn Du: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (Truyện
Kiều).
Người Mẹ là “thiên
thần hộ mệnh”, dành hết tất cả chỉ vì con và cũng chẳng cần gì ở con! Thiên thần
sẽ nói với ta bằng ngôn từ mà chỉ có người mới có. Nguyễn Ngọc Thành viết “Mẹ và người lính”khiến tôi hình dung về bao
sự hy sinh lớn lao, không bờ bến. Với thể loại thơ lục bát đậm đà tình cảm, đậm
đặc bản sắc dân tộc, tác giả dẫn ta vào hình ảnh người mẹ chiến sĩ tựa cửa
ngóng trông, khắc khoải:
“Mẹ vẫn
chờ đón các con
Ngày
đêm thương nhớ mỏi mòn ngóng trông”.
Như một cách nói
tâm tình nhỏ nhẹ, ta đọc trong ánh mắt người mẹ dõi nhìn xa xăm bao sự “mỏi mòn”. Những đứa con đã thực thi
nghĩa vụ, trong huyết quản người Mẹ niềm tưởng nhớ, thương xót như vẫn đong đầy:
“Đánh
trận chẳng kể đêm ngày
Quần
nhau với giặc chân tay rã rời
Đói
cơm – khát nước… Mẹ ơi!
Quặn
đau vĩnh biệt bao người ra đi”.
Với bút pháp tả
thực diễn tả rốt ráo cho người đọc dễ cảm thụ trên từng câu chữ, tác giả khép
đóng bài thơ thật ngắn gọn:
“Nước
nhà đã sạch bóng thù
Đêm
đêm mẹ lại hát ru một mình”.
Thi pháp thời
gian ở đây “Đêm đêm” – dễ liên tưởng
đến không gian tĩnh lặng. Vì sao khi về đêm, người Mẹ lại hát ru một mình?
Vẫn còn đó đau
đáu niềm trăn trở xót xa ? Những người mẹ vẫn luôn nghĩ con vẫn đang ở nơi xa
và mong mỏi ngày trở về. Có thể hình dung cảnh tượng những người vợ vẫn đêm
ngày hoài mong như “Hòn vọng phu”:
Dõi theo, trông chờ miệt mài. Ngày nào cũng vậy cứ tiếp diễn “hát ru một mình”, chỉ bốn từ nhưng đã
nói lên được nhiều điều muốn nói… Niềm riêng cô tịch giữ kín, lặng lẽ tự nói với
lòng mình – chẳng muốn ai nghe! Ở một mình để có một khoảng lặng riêng tư. Để
được sống lại bên kỷ niệm ngày xưa, không thể nào quên. Trong một khoảnh khắc mẹ
con xúm xuýt quây quần bên nhau. Hoặc ở một nơi nào đó, lều vải hay căn hầm dưới
lòng đất, có “bếp Hoàng Cầm” giấu
khói… Hay bên trong những cánh cửa “đặc
biệt” khi bị lùng sục, càn quét... Tiếng ru day dứt, không dễ phôi pha. Ru
để gợi nhớ, để được hồi tưởng. “Tiếng ru”
là hiện thân cho vỗ về, xót xa và chia sẻ. Đã có biết bao người đã hy sinh cho
ngày hòa bình.
Sống vào những
ngày hòa bình lập lại trên toàn cõi đất nước, nhà thơ Nguyễn Ngọc Thành hòa vào
mùa xuân thanh bình nhưng vẫn luôn nhớ về “Anh
lính biên cương”, những dòng cảm xúc được thả mình tan hòa vào lời thơ:
“Đêm biên cương nơi quê nhà anh đó
Mùa Xuân về hoa nở thắm rừng cây
Con nai vàng ngơ ngác gọi bầy
Suối rì rào đêm ngày vang khúc hát”.
Lòng yêu thương
thanh khiết - “giữ bình yên từng nhành
cây ngọn cỏ”, các chiến sĩ ta đã không quản ngại hy sinh vì bởi không muốn thấy nỗi đau dân ta bị giẫm đạp
dưới gót giày xâm lược tàn bạo, phi nghĩa.
Trên tinh thần
ôn lại bao mất mát, hy sinh vô cùng lớn lao. Qua đó, gợi nhắc thái độ sống “nhớ nguồn”:
“Tổ quốc ơi! Mênh mông và đẹp quá
Có những người con lòng dạ sắt son
Để đất nước mình mãi mãi trường tồn
Vui hạnh phúc ấm no… cả dân tộc”.
Tác giả như thay
cho tiếng nói bao người đã khuất. Hồn tử sĩ gọi về thật thiêng liêng. Với thể
thơ dân tộc, tác giả diễn đạt sự sẻ chia – gợi nhắc hồn người xưa về cùng vui
Xuân ân nghĩa!
Viết về đề tài
Xuân, tác giả bộc bạch mùa Xuân gắn với tình yêu. Bài thơ “Bên em mùa xuân”, Nguyễn Ngọc Thành đã viết:
“…Mơn man từng sợi nắng vàng
Vương
trên mái tóc dịu dàng thơm hương
Xuân
về vui khắp nẻo đường
Bên
người con gái yêu thương trọn đời”.
Hình ảnh, ngôn từ
thể hiện nét bừng sáng “nắng vàng”.
Niềm rung cảm thật tinh tế - “vương trên
mái tóc …”. Ý thơ phơi phới, nhẹ nhàng, thân thương. Thơ anh có cái tôi nhiệt
huyết, được thôi thúc từ cảm tính chuyển hóa sang cái ta nghĩa tình. Tất cả được
gửi gắm vào bài thơ “Kính tặng hương hồn
mẹ thân yêu”:
“Nhúm
nhăn in đậm tháng ngày
Các
con khôn lớn chân tay chai sần
Nhọc
nhằn từ tuổi còn xuân
Cả
đời mẹ được mấy lần niềm vui?
Từ láy gợi tả
hình ảnh “nhúm nhăn” thật trung thực
và cảm xúc thương xót, xen lẫn niềm tri ân thật nồng nàn. “Nhọc nhằn” gắn kết với câu hỏi tu từ tạo điểm nhấn, tô đậm - “Cả đời mẹ được mấy lần niềm vui?”
Hình tượng cao vời
của mẹ chợt hiện lên, lồng lộng như mây, như núi. Người mẹ chấp nhận đời tần tảo,
khó nhọc, quên bẵng đi “tuổi xanh rơi rụng
héo mòn”.
Đến với thể thơ
tự do tám chữ, tác giả đã khai thác triệt để, tuân thủ biện pháp nghệ thuật hiệp
vần, gieo vần liên vận phối hợp với vần gián cách thật nghiêm chỉnh. Sự bài bản
ắt có và đủ này đã tạo nên tính nhạc quy phạm trong thơ. Chúng ta cùng nghe lời
mời gọi giao tình nghe thật ngọt ngào và tha thiết:
“Anh
đưa em về miền quê yêu dấu
Bát
ngát ruộng đồng xanh thẳm nương dâu
Nơi
những dòng sông thắm đượm nhịp cầu”.
(Miền
quê yêu dấu)
Không sao bàn luận
hết 51 bài thơ gói lại trong vài trang viết. Nhìn tổng quan, hầu hết các bài
thơ đều phát sáng lạc quan. Đó là tiếng lòng qua tiếng thơ, hồn thơ dân tộc
phong phú, giàu âm điệu trữ tình có đan xen chất hoài niệm chính trị lịch sử, nhắc
ta hôm nay không thể lãng quên những người con anh dũng đã hy sinh máu xương và
hạnh phúc cho độc lập, hòa bình.
Đọc hai tập thơ
của Nguyễn Ngọc Thành, tôi cảm thấy bao cuộc chiến tranh đã tạm ngơi nghỉ,
nhưng vẫn đọng lại những mất mát không gì bù đắp được. Trong thực tế, vẫn còn
đó những người vợ, người mẹ cứ “rưng
rưng” tìm chồng con mất tích do chiến tranh... Hỏi thế gian sao còn mãi chiến
tranh?
Trần Quang Khanh
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét