Nhà văn Đoàn Văn Đạt –
tác giả truyện ngắn "Người chuyên viết điếu văn" được nhiều bạn
đọc biết đến ở An Giang, có nhiều tác phẩm hay đóng góp cho sự nghiệp văn học
nước nhà giai đoạn kiến thiết xây dựng quê hương, thống nhất đất nước. Nhà văn
Đoàn Văn Đạt là một nghệ sĩ đúng nghĩa. Bởi, anh không chỉ là một cây bút
truyện ngắn tên tuổi của đồng bằng sông Cửu Long thập niên 80-90, mà còn là tác
giả của nhiều bài thơ sâu lắng thấm đẫm tình người. Anh đến với thơ trước khi
viết văn xuôi và là một trong những người làm báo phát thanh đầu tiên ở huyện
Châu Phú sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử.
Tôi hân hạnh là một
trong những “đồ đệ” có nhiều thời gian gắn bó với nhà văn Đoàn Văn Đạt trong
hoạt động báo chí và văn học nghệ thuật những ngày anh trực tiếp công tác ở địa
bàn Châu Phú - Châu Đốc giai đoạn 1979-2017. Nhờ vậy, tôi có khá nhiều kỷ niệm
khó quên với anh cả trong nghề nghiệp lẫn đời thường. Nhớ nhất những ngày lễ, tết
nhàn nhã rảnh rang bên “chiếu trà mâm rượu” anh em có thời gian tâm sự thân
tình chuyện đời, chuyện nghề với nhau tâm đắc.
Nhà văn Đoàn Văn Đạt thuở làm báo phát thanh
Sau ngày giải phóng
miền Nam 1975, trong số những thanh niên huyện Châu Phú tham gia cách mạng,
trực tiếp có mặt trong bộ máy chính quyền quân quản ngày ấy mà sau này tôi nghe
kể lại đã có anh Đoàn Văn Đạt. Chàng trai xứ núi ấp Vĩnh Đông – xã Vĩnh Tế (lúc
ấy Vĩnh Tế thuộc huyện Châu Phú, nay là phường Núi Sam – thành phố Châu Đốc) đã
nhiệt huyết tham gia công tác ở Phòng Văn hóa – Thông tin huyện, rồi Đài Truyền
thanh huyện Châu Phú. Từ một phóng viên, biên tập viên trong những ngày mới
thành lập Đài, bằng khả năng viết giỏi và tài quản lý chuyên môn sâu sát, chỉ
sau vài năm anh được đề bạt giữ chức vụ Phó rồi Trưởng Đài Truyền thanh huyện. Và…
tôi đã làm cộng tác viên cho Đài Truyền thanh huyện Châu Phú, biết anh, được cộng
tác với anh cũng từ thời điểm này.
Khoàng cuối năm 1979
đầu năm 1980 tôi đoạt danh hiệu “Học sinh giỏi Văn” cấp tỉnh, tôi được vinh dự
là thành viên đội tuyển học sinh giỏi Văn tỉnh An Giang dự thi học sinh giỏi
Văn cấp quốc gia tại Huế. Với tiêu chuẩn này tôi được Ty Giáo dục ưu ái đặc
cách tuyển thẳng lên học cấp 3 (bây giờ là THPT) không phải qua vòng thi chuyển
cấp. Nhà văn Đoàn Văn Đạt bấy giờ là Phó trưởng Đài Truyền thanh huyện Châu Phú
biết tôi có năng khiếu môn Văn học đã tìm gặp “gạ gẫm” và “thuyết phục” tôi làm
cộng tác viên chuyên viết về hoạt động giáo dục trong trường học gửi cho Đài
anh phát trong chuyên mục “Tiếng nói học đường” phát thanh hằng tuần.
Trong một lần gặp tôi
anh nói: “Học xong phổ thông em nên trở về tham gia công tác Đài Truyền thanh
huyện nhà với anh không cần phải thi vô bất kỳ ngành nào khác. Vì em có năng
khiếu văn nghệ, khiếu văn chương, em về đây làm phóng viên cho Đài anh là hợp
lý nhất. Sau này, cơ quan sẽ cử em đi học các lớp bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn làm báo cũng có khác gì em học đại học đâu? Vừa học vừa làm nghề, không phải mất thời gian học chính quy lại ít tốn
kém…”.
Đến giờ, đã 36 năm trôi
qua tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai giọng nói chậm rãi, chí tình, gần gũi,
ấm áp, đầy thuyết phục bởi tấm lòng nghệ sĩ của anh. Xem như ngày ấy anh đã
“chấm chọn” tôi về làm “lính” cơ quan anh cho dù tôi còn đang đi học.
Bây giờ, khi đã sống qua
hơn nửa đời người tôi dần tin cuộc đời này con người ta gặp gỡ, qua lại với
nhau, trai gái yêu thương nhau thành vợ thành chồng hoặc chia tay nhau như
triết lý nhà Phật nói “tùy duyên” là có thật. Nếu không “duyên nợ” với nghề báo
chí, không “duyên nợ” với ngành phát thanh cũng như nếu không có “duyên” với nhà
văn đàn anh Đoàn Văn Đạt có lẽ tôi đã làm nghề “gõ đầu trẻ” hoặc ngành nghề kỹ
thuật theo ý muốn của ba tôi. Bởi, sau khi học xong phổ thông tôi thi và theo
học ngành Sư phạm với ước mơ ra trường làm thầy giáo dạy môn Văn.
Nhưng, có lẽ số phận an
bày “mặc định” tôi làm văn nghệ chứ
không phù hợp với ngành nghề nào khác. Thay vì như những giáo sinh bạn sau
2 tháng lao động bắt buộc đầu năm ở trường sư phạm sẽ vào học chính khóa. Do
không “kham” nổi việc ngày ngày cùng các giáo sinh bạn dọn cỏ sân trường sư
phạm. Tôi đã vác hành lý trở về nhà và “đầu quân” vào Đài Truyền thanh huyện
làm phóng viên, bắt đầu nghiệp báo chí văn nghệ từ đó. Tại đây, tôi được làm
việc chung với nhà văn Đoàn Văn Đạt. Tập tễnh bước vào làng báo phát thanh,
chính thức viết những tin bài đầu tiên cho mỗi chương trình thời sự của Đài
phát trên mạng lưới truyền thanh còn rất thô sơ ngày ấy.
Tôi còn nhớ nhà văn
Đoàn Văn Đạt làm báo phát thanh cũng chăm chút kỹ lưỡng từng câu, từng từ chẳng
khác chi sáng tác truyện ngắn. Chương trình thời sự 15 phút hàng ngày của Đài
mặc dù Ban biên tập đã xây dựng chọn lọc hoàn chỉnh sau đó trình lãnh đạo cơ
quan ký duyệt. Vai trò Trưởng đài chỉ mỗi thao tác đọc thông qua để kiểm tra nhằm
tránh sai sót về quan điểm, đường lối chính trị của Đảng và đặt bút ký duyệt.
Thế nhưng! Với mỗi bản tin, mỗi bài viết ở bất kỳ thể loại nào nhà văn Đoàn Văn
Đạt luôn chịu khó đọc kỹ từng câu, từng từ, chỉnh sửa chi tiết từng dấu chấm,
phẩy để chương trình hoàn chỉnh.
Những ngày không bận
rộn việc khách khứa, việc cơ quan anh đều dành thời gian ngồi nghe lại băng chương
trình do phát thanh viên vừa thu thanh xong. Qua đó, kịp thời giúp phát thanh
viên uốn nắn chỉnh sửa lại những đoạn những câu ghi âm phạm lỗi thể hiện, kể cả
lỗi kỷ thuật viên thu pha chương trình bị sai sót. Những lúc nhóm chương trình
thiếu vai nhân vật “Câu chuyện truyền thanh”, anh đều sẵn sàng tham gia cùng nhóm
chương trình vào vai nhân vật ấy và diễn đạt rất ăn ý với anh em. Anh đặc biệt
chú trọng chăm chút giọng đọc của từng phát thanh viên.
Họp chuyên môn anh
thường nhắc nhở anh chị em làm nhiệm vụ phát thanh viên nêu cao tinh thần trách
nhiệm, yêu nghể, gắn bó với nghề để mỗi ngày mỗi nâng cao hơn chất giọng, mỗi
ngày mỗi đọc hay hơn để thu hút người nghe. Anh nhấn mạnh: “Phát thanh viên là
người phóng viên thứ hai “lột tả” chính xác cái “hồn” mỗi tác phẩm báo chí… Với
binh chủng phát thanh còn gọi là “báo nói” thì “giọng đọc” thu hút của phát
thanh viên là yếu tố quyết định đến chất lương nội dung tuyên truyền lay động, thuyết
phục người nghe”. Riêng, vào những ngày kỷ niệm lịch sử đất nước như Giải phóng
miền Nam 30 tháng 4, Quốc tế Lao động 1 tháng 5, Cách mạng Mùa thu 19 tháng 8,
Quốc khánh 2 tháng 9, Nam Bộ kháng chiến, Thương binh liệt sĩ… anh đều trực
tiếp chịu trách nhiệm biên tập chương trình phát thanh đồng thời viết những bài
“đinh” chương trình qua các thể loại bút ký, bình luận, phân tích các vấn đề
chính trị thời sự đầy tính lạc quan, nhân văn sâu sắc…
Công tác ở Đài một thời
gian, cùng với được cơ quan cử tham dự các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn
ngắn hạn, dài hạn của ngành tổ chức như lời anh hứa trước kia. Qua làm việc
trực tiếp với anh mà tôi “hấp thụ” được khá nhiều “vốn liếng”, kỹ năng làm báo từ
anh. Ở nhà văn Đoàn Văn Đạt tôi thật sự tâm đắc quan điểm “chậm mà chắc” trong
viết lách giống như tác phong sinh hoạt đời thường từ tốn chậm rãi của anh. Thuở
ấy, khi phân công phóng viên viết phóng sự thu thanh, phóng sự điều tra thu
thanh, mẫu chuyện, bài phản ánh các vấn đề kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng… Lĩnh vực nào anh cũng đều nhắc nhở
chúng tôi cần chuẩn bị chu đáo các bước: nghiên cứu đề tài, thu thập tư liệu,
nghiền ngẫm ý đồ thể hiện thật kỹ lưỡng trước khi đặt bút viết. Khi viết không
được viết vội vã, hời hợt, chiếu lệ qua loa. Viết chậm nhưng chất lượng cao mới
là hiệu quả. Bài học vỡ lòng này theo suốt cuộc đời viết lách của tôi, đến nay
vẫn mang ý nghĩa cốt lõi.
Nhà văn Đoàn Văn Đạt
còn là người anh, người thầy phát hiện đào tạo nhiều “đệ tử” từ ngành phát
thanh sau này trở thành những nhà báo tên tuổi. Nhà báo Nguyễn Thành Tín - Phó
Tổng biên tập Báo An Giang bây giờ là một trường hợp điển hình. Khi ấy, Nguyễn
Thành Tín là nhân viên Phòng Kỹ thuật - Đài Truyền thanh thị xã Châu Đốc. Nhà
văn Đoàn Văn Đạt bấy giờ từ Đài Truyền thanh huyện Châu Phú, anh được luân
chuyển về giữ chức vụ Trưởng Đài Truyền thanh thị xã Châu Đốc những năm 89-90…
Và có một năm nhân lệ cúng Thanh minh tảo mộ tháng ba âm lịch, ngẫu hứng thế
nào mà anh giao kỹ thuật viên Nguyễn Thành Tín trong một ngày phải vào tận khu
nghĩa địa múi Sam tham quan thực tế và viết một bài phản ánh không khí lễ cúng
Thanh minh tảo mộ của bà con địa phương nộp cho Ban biên tập. Kết quả là… bài
viết ấy được Trưởng đài Đoàn Văn Đạt chỉnh sửa “mực đỏ” kín các trang bản thảo
vì nhà báo Nguyễn Thành Tín lúc ấy là một kỹỷ thuật viên làm sao viết được bài
hoàn chỉnh (!)
Nhưng sau đó nhà văn
Đoàn Văn Đạt quyết định phân công Nguyễn Thành Tín làm nhiệm vụ phóng viên, anh
nói: “Thành Tín có năng lực viết lách, phù hợp nghề báo”. Thật vậy về sau
Nguyễn Thành Tín từ một phóng viên của Đài Truyền thanh thị xã Châu Đốc trở
thành phóng viên Báo An Giang. Lần lượt được đào tạo chính quy đại học báo chí
và sau đại học với học vị Thạc sĩ báo chí, anh được cơ quan tín nhiệm giao giữ
chức vụ Phó Tổng biên tập báo An Giang bây giờ. Nhà báo Nguyễn Thành Tín là đàn
em, là học trò của nhà văn Đoàn Văn Đạt.
Tôi cũng là “học
trò” của anh trong ngành phát thanh -
truyền thanh huyện Châu Phú rồi sau này là hoạt động văn học nghệ thuật. Có thể
nói nhà văn Đoàn Văn Đạt xứng đáng là “cánh chim đầu đàn” của ngành phát thanh -
truyền thanh huyện Châu Phú. Anh có mặt từ những ngày đầu tiên thành lập Đài,
chúng tôi thường gọi vui anh là vị “tổ sư” có nhiều công sức trong việc hình
thành và phát triển sự nghiệp phát thanh - truyền thanh Châu Phú sau ngày miền
Nam giải phóng đến cuối thập niên 90.
Nhà văn Đoàn Văn Đạt làm thơ và mê ớt
Có thể không nhiều
người biết tác phẩm văn học đầu tay của nhà văn Đoàn Văn Đạt là thơ. Bởi, đã là
nhà văn thường thì ai cũng nghĩ tác phẩm sáng tác đầu tiên phải là văn xuôi, là
truyện, là bút ký, tùy bút… chứ sao lại văn vần? Sao lại là thơ? Vậy mới lạ.
Rất nhiều lần uống rượu với nhau, nhà văn Đoàn Văn Đạt tâm sự với tôi rằng những
sáng tác đầu tay của anh là thơ, sau 1975 anh mới viết văn xuôi chủ yếu là
truyện ngắn. Những ngày đầu tham gia hoạt động văn nghệ anh sáng tác thơ gửi
các báo ký bút hiệu Đạt Lệ Giang. Cùng với văn xuôi anh viết gần trăm bài thơ,
nếu lưu giữ đầy đủ anh dư số lượng bài để in thành tập thơ. Và anh sáng tác thơ
tùy hứng. Anh thường làm thơ 4 câu. Có lẽ đó là sở thích sáng tác riêng anh. Bài
thơ nào của anh cũng cô đọng, súc tích, sâu lắng, triết lý nhân sinh.
Ghi lại cảm xúc thơ
trên những tờ giấy học trò và nhiều nhất là trên những tờ lịch rời là thói quen
sáng tác thơ của anh. Anh ít khi sử dụng máy tính, nên đa số bản thảo thơ của
anh luôn bị thất lạc. Về sau này những bài thơ in trên tạp san Văn nghệ Châu
Phú và tạp chí Thất Sơn như các bài: Ảo
ảnh chiều cuối năm, Số không, Mẹ ơi, Tiếng súng Củ Chi, Du lịch,
Nhìn trăng… ký bút hiệu Viên An thì
còn lưu giữ được. Với thơ anh cũng viết chậm như viết văn xuôi. Anh chọn từ rất
kỹ tính. Anh hay nói với tôi văn xuôi đã phải chọn lọc kỹ từng chữ từng từ thì
với thơ mỗi từ ngữ càng phải “chắt chiu” để sao cho có được những từ “đắc địa”…
Như vậy bài thơ mới đáng gọi là thơ, mới giá trị, mới đi vào và ở lại trong
lòng người đọc.
Sau này, những năm về
hưu phụ trách chức danh Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật huyện Châu Phú, mỗi
khi sáng tác xong bài thơ nào anh cũng thường rủ tôi hoặc khi thì nhà nhà thơ Phan
Lạc Nhân, khi thì nhạc sĩ Phan Võ Hoàng Nam, nhạc sĩ Lê Quang Kỹ “lai rai” dăm
ba ly rượu anh em nói chuyện văn thơ nhạc họa. Anh đọc cho chúng tôi nghe bài
thơ anh vừa sáng tác tràn đầy niềm hứng thú. Và anh cũng thường đọc thơ của anh
em, nhắc đi nhắc lại những câu, những chữ trong bài thơ của anh em bạn bè anh
thích…
Tôi nhớ khoảng sân
trước cửa nhà anh với chiếc bàn ghế bằng đá, có những chiều tôi và anh hay ngồi
đối ẩm nói chuyện văn nghệ tự cổ chí kim. Phía ngoài chiếc bàn đá là vuông đất trồng
rau mà tôi gọi là “vườn rau xanh” do anh tự trồng các loại rau cải, mồng tơi,
tía tô, hành hẹ để ăn hàng ngày, cao hứng mang tặng anh em bạn bè… Trong đó đặc
biệt anh trồng hàng chục giống ớt - thứ trái anh mê say tới nỗi sáng tác thành
truyện ngắn “Ăn ớt”. Nhà văn Đoàn Văn Đạt còn có cái thú đi chợ. Anh thích quan
sát sinh hoạt chợ, quan sát con người trong buổi chợ… Và khi đi chợ mua thức ăn,
món hàng anh để tâm “điều nghiên” nhiều
nhất vẫn là thứ trái cay nồng: ớt. Từ trái ớt lí nhí cay “hiểm” đủ màu sắc
xanh, trắng đến trái ớt đỏ chóe “sừng trâu” hay ớt trái tròn to trồng trên cao
nguyên Đà Lạt, ớt “chim ị” anh đều sưu tầm tất tật. Đi ăn tiệc nhà hàng, khách
sạn, giỗ chạp, nhậu nhẹt với bạn bè bao giờ anh cũng “móc” từ trong túi ra góp
vào bàn tiệc nhúm ớt dăm ba đến chục trái mời những anh em cùng sở thích ăn cay
tăng thêm phần khoái khẩu…
Sau ngày anh mất, khi
tổng hợp tư liệu để viết bài về anh tôi được chị Bạch Tuyết - vợ anh - cung cấp
cho tôi mấy tờ lịch, tờ giấy học trò là “bản thảo” thơ anh viết thời gian qua
còn sót lại đâu đó trong nhà. Thật quý hóa! Ngoài 4-5 bài thơ đã in trên các số
tạp san văn nghệ như: Tiếng súng Củ Chi,
Ảo ảnh chiều cuối năm, Mẹ ơi, Du lịch… có 2 bài thơ anh chưa gửi in. Nhân tiện xin được trân
trọng giới thiệu cùng anh em, bạn bè thưởng thức:
NGỘ
Bàn tay tiên sáng hồng thời con gái
Trẻ trai tôi hằng ao ước một lần
Nay tình cờ soi tấm phim em chụp
Ngộ lòng đau mười ngón cõi hồng trần
KỶ NIỆM
Nhớ ngày xưa khi trời chuyển mưa
Mẹ hối ra sân gom củi
Tay tôi gom, mắt cứ nhìn trời
Thấy giăng đầy lửa
Ngày mở cửa, chính tay tôi mở cửa
Đón gió vào
Đêm đóng cửa, chính tay tôi đóng cửa
Ngại gió vào
Xưa mọc chiếc răng cùng
Đau nhức cam chịu phần ta
Khi xưa răng sữa mọc ra
Đau nhức ta chia phần mẹ.
Nhà văn Đoàn Văn Đạt với văn xuôi và đời thường
Được xem là một cây bút
tiêu biểu của văn nghệ An Giang nói riêng, của đồng bằng sông Cửu Long nói
chung, những trang viết của nhà văn Đoàn Văn Đạt dù truyện ngắn, tùy bút, ký hoặc
bất kỳ thể loại nào, ngòi bút của anh đều thể hiện tinh thần nhập cuộc, mạnh
dạn, xông xáo trước những vấn đề bức thiết của xã hội. Cách viết dung dị, hóm
hỉnh, chân thật, sử dụng vốn từ ngữ địa phương mộc mạc, giản đơn đã bật lên một
phong cách văn xuôi riêng biệt đậm chất Tây Nam Bộ không trộn lẫn với ai.
Vốn sống, tầm hiểu biết
sâu sắc, bao quát miền sông núi An Giang cùng với tình cảm sâu nặng dành cho
quê hương con người An Giang đã mang vào từng trang viết của anh ngồn ngộn hình
ảnh sống động chan chứa nghĩa tình, nhân văn, triết lý, đạo lý… đến mức khi đọc
các tác phẩm của anh, bạn đọc dễ có cảm nhận tác giả đã viết bằng cả tình cảm
yêu thương gắn bó lẫn những suy tư trăn trở, buồn vui với vùng đất phương nam
nhiều nắng gió.
Là một đàn em, nói khác hơn giống như
một người bạn vong niên với anh, hầu như sáng tác nào của anh tôi cũng đều đọc
qua, nghiền ngẫm. Ngoài những tác phẩm đã xuất bản như: Đệ tử ruột (tập truyện in
năm 1993), Ác mộng đàn bà (tập truyện in năm 2001) và Thông Thiên (tập truyện
in năm 2012), nhà văn Đoàn Văn Đạt còn có nhiều sáng tác in chung trên 20 tập
truyện ký. Không chỉ gắn bó với miền sông nước An Giang, nhà văn Đoàn Văn Đạt
còn là người có kỹ năng quan sát, tích lũy vốn sống qua trải nghiệm thực tế một
cách sâu sắc. Gần gũi anh trong sinh hoạt đời thường, tôi cứ miên man anh giống
một thiền sư hơn một người làm văn nghệ. Anh chậm rãi, trầm tĩnh trước mọi diễn biến, mọi vấn đề. Những lúc man mác cơn say anh
thường suy tư, ngẫm nghĩ và đau đáu về kiếp nhân sinh, về cái vô thường “sắc
sắc không không” của nhà Phật, cái vô hạn, hữu hình của vũ trụ bao la với nhiều
trăn trở.
Tất cả những điều đó
giúp nhà văn có được sự sáng tạo nghệ thuật phong phú, dung dị, tự nhiên như
không hề dụng ý sắp xếp mà câu chuyện cứ thế diễn ra một cách bình thường. Giống
như trong đầu nghĩ gì anh viết nấy hết sức độc đáo mà không cẩu thả tùy tiện. Nghệ
thuật trần thuật linh hoạt, cách đặt vấn đề theo kiểu diễn dịch, cách vào
truyện, dẫn truyện thu hút, hấp dẫn và tạo ấn tượng thuyết phục bạn đọc là thế
mạnh trong sáng tác truyện ngắn của anh. Người ta nói đọc văn hiểu người. Thật
vậy, với giọng văn thâm trầm nhiều cung bậc, màu sắc, đầy tràn cảm xúc pha nét
dí dỏm có thể hình dung ra anh là một con người dễ gần gũi bởi sự hóm hỉnh và
hài hước. Tiếp xúc anh, người đối diện có cảm giác thoải mái dễ chịu bởi ngoài
sự điềm đạm, chững chạc vốn có. Anh còn toát lên tính thích vui đùa, lãng tử.
Nhà văn Đoàn
Văn Đạt có một bút pháp dí dỏm, hài hước thú vị, hình thành một cá tính rất riêng
trong phong cách văn xuôi. Nên những vấn đề anh đặt ra dù nghiêm trọng như tranh
chấp đất đai, đền bù giải tỏa, lũ lụt, thiên tai, tín ngưỡng tôn giáo… vẫn
khiến người đọc không cảm thấy nặng nề mà ngược lại luôn thích thú với bao chi
tiết đời thường, thân quen hợp tình, hợp lý. Do vậy, cho dù bất cứ lĩnh vực nào của đời sống hay những việc khó khăn gay góc thậm
chí “sự việc ít chất văn học nhất” anh vẫn không hề ngại xông xáo. Bởi, anh là
một nhà văn.
Tuổi thơ, có
một thời gian nhà văn Đoàn Văn Đạt sống hẳn trong chùa Tây An ở núi Sam với một
người bạn. Không khí nhà chùa thấm đẫm trong anh, có lẽ chốn thiền môn tạo anh
thói quen tĩnh tâm, an lạc. Anh nghiên cứu sâu sắc đạo Phật mà không lệ thuộc
hay ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo. Ngoài sở thích ăn cay uống say, nhà văn Đoàn
Văn Đạt còn có những cái thú rất riêng tư.
Dự trại sáng
tác do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở miệt biển… Trong khi mọi người tìm mua
những món đặc sản vùng miền thì anh góp nhặt sưu tầm mang về một bao các loại
đá có sẵn trên bãi biển. Về nhà tự tay sắp những viên đá này thành hòn non bộ
ghép cây cảnh để chiều chiều ngồi ngắm. Sinh ra và lớn lên từ xứ núi, đá núi
vẫn chưa thỏa mãn tình yêu với đá trong anh, đi biển vẫn cứ gom góp từng viên
đá với nhiều hình thù riêng biệt đưa vào hết một chiếc bao bì choán chỗ trên xe
lại phải khuân vác ì ạch một cách nặng nề, anh cũng cứ mang về (!).
Còn khi say
anh chỉ nhớ và nghêu ngao mỗi bài hát “Tình khúc thứ nhất” của nhạc sĩ Vũ Thành
An. Anh thích nhất câu hát này: “Tình vui trong phút giây thôi…” và hễ đã uống
say thì lặp đi lặp lại: “Tình vui trong phút giây thôi…”. Ngày dự hội thảo
“Người nhặt chữ từ những cánh đồng” của nhà văn Mai Bửu Minh về tới Châu Phú,
ngồi nhậu với tôi, nhạc sĩ Phan Võ Hoàng Nam, nhà văn Võ Diệu Thanh, anh cũng
nghêu ngao bài hát này, cũng câu hát “Tình vui trong phút giây thôi, ý sầu nuôi
suốt đời…”. Không ngờ, đây là lần cuối cùng chúng tôi nghe anh hát!
Mỗi dịp tết
đến xuân về anh thích dành thời gian tỉa tót chậu mai vàng, mỗi chiều cuối năm
đón xuân bên ly rượu tách trà ngon ngắm nghía từng cành mai và ngẫm nghĩ. Đặc
biệt, anh có cái thú đón xuân gần như “cố định”. Đó là sáng mùng một năm nào
cũng vậy, anh thường một mình cỡi xe gắn máy chạy suốt một lượt qua các vùng
quê hẻo lánh nhìn ngắm, ghi nhận không khí tết ở nông thôn. Đến tận trưa mới về
tới nhà. Anh thường nói với tôi: “Không khí Tết ở quê bao giờ cũng ấm áp, rộn
ràng hơn ở chợ…”
Ấp ủ một cuốn
tiểu thuyết đang viết, những ngày cuối đời lúc anh em đối ẩm nhau nhà văn Đoàn
Văn Đạt tâm sự với tôi rằng: “Không biết tác phẩm này của tao tới bao giờ mới
viết xong?”. Câu hỏi không cần có câu trả lời. Giờ… những trang bản thảo còn
dang dở! Và cũng chẳng biết tập bản thảo tiểu thuyết ấy anh lưu giữ ở đâu?
Một đời cống
hiến cho hoạt động văn học nghệ thuật, nhà văn Đoàn Văn Đạt được trao tặng huy
chương “Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam” cùng các giải thưởng văn học:
Giải A cuộc thi truyện ngắn An Giang năm 1993, Giải I cuộc thi truyện ngắn An
Giang năm 2000, Giải II cuộc thi truyện ngắn An Giang năm 2005… Mùa xuân đang
đến, Tết cổ truyền đang dần hiện diện trên quê hương. Hai năm nay, tôi không
còn nghe tiếng anh nhắc gửi bài in số báo xuân trước mỗi dịp xuân về Tết đến!
Cũng như mãi mãi không còn có dịp đối ẩm với anh vào những chiều cuối năm bên
chậu cây mai vàng nói chuyện văn thơ nhạc họa ngày xuân… Và nghe anh nghêu ngao
hát “Tình vui theo gió mây trôi, ý sầu mưa xuống đời… Tuổi thần tiên em đã…”.
NGUYỄN THANH QUANG
–––––––––––––––––––––––––
BÔNG
TRÀM CHUYÊN ĐỀ 21
>>
Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh bên dưới để vào mục lục <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét