Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày
312 trang, khổ 13x19 cm, giá 100.000 đ. Mời quý bạn đọc ủng hộ!
Tôi đến căn nhà “ồn
ã như cái chợ” của ông Năm To vào những ngày mưa già dai dẳng. Ông Năm To - Ảnh Diệu Thanh
Con đường không lầy lội. Nhưng đó là con đường lở lói. Không có một nơi nào để xe có thể tránh. Ổ gà này nối tiếp ổ gà kia. Xe chạy cồng cồng như ngựa sải trên mặt đá. Thật khó khăn để đi vượt qua 3 km từ ủy ban xã Thạnh Mỹ Tây về Kinh Bảy.
Ngôi nhà ông nằm giữa hai mặt tiền đường gần đầu Kinh Bảy. Trong nhà là hai hàng võng và những cái chõng tre. Trong đó đám học trò đùa giỡn nhau ó ré như cái chợ. Mưa gió chúng lùa nhau ra tắm mưa dậy cả khúc đường, át cả tiếng mưa. “Cái chợ tắm” chuyển qua “cái chợ ăn”. Chúng vừa ăn vừa cố tình giành giật nhau. Không ai rầy la cả. Những cô cậu học trò đang tuổi mười lăm mười sáu thì sự nghịch ngợm phá phấy phải nói là không có đối thủ.
Hình như ông Năm To bỏ ra hơn ba trăm triệu mua miếng đất mặt tiền này rồi xây “nhà nghỉ” chẳng những không thu lại đồng lời nhỏ mọn nào mà còn mua về cho nhà mình những ồn ào bận rộn.
Tôi ngập ngừng bước vào nhà, ngoắc vài em tới hỏi.
- Các em đã ở đây lâu chưa.
- Dạ đã ở hai năm.
- Ỏ đây có bạn nào gặp khó khăn trong tiếp thu bài học không.
- Không, ai cũng tự học tốt nên phần lớn đều học khá giỏi.
- Con đường từ trường về nhà gần hai mươi cây số mấy em có ngán không?
- Dạ không, đi học vui.
- Các em có lo lắng về tương lai không.
- Dạ không. Trước mắt tụi em cứ học. Ham học thì thế nào cũng có tương lai thôi cô.
Nhìn đám trẻ, tôi nhớ thời chúng tôi còn nhỏ, gì cũng không sợ chỉ sợ bị cho nghỉ học.
Tôi lại nhớ tới những đứa trẻ vùng thuận lợi, đều là con cưng nên đầy rẫy những bệnh thời đại như cô đơn buồn chán, như cảm thấy chẳng còn gì ham thích nữa và tương lai không biết nên làm gì. Các em nẹt ga ngay khi còn ở sân trường, chửi nhau đánh nhau khi vừa khuất dáng thầy cô. Các em nhìn cha mẹ thầy cô như nhìn những kẻ thù, từng lời nói thốt ra luôn là sự bất đồng quan điểm. Cảm giác như hai thế hệ hoàn toàn không thể nào tìm thấy điểm chung. Nhìn cách em như nhìn thấy cả thanh xuân bị đày ải bởi chuyện học hành và sự thất nghiệp của những cử nhân thạc sĩ đã gieo vào đầu các em một tương lai không còn mang bóng hình chữ nghĩa.
Những đứa trẻ thôn quê đang trú ngụ tại nhà chú Năm cũng đang là con một con hai. Nhà nghèo, nhà giàu đều có. Mỗi đứa trẻ một hoàn cảnh. Đứa thì cha mẹ rất nghiêm khắc, đứa lại rất được tin yêu. Đứa hiền lành đứa lại vô cùng lanh lợi. Từng cá tính gặp nhau cùng chung đụng trong một mái nhà. Từng cảnh đời riêng biệt chợt có chung một ông bà Năm như một người ông, người bà thân thuộc.
- Mấy em giỡn miết thế này cho đến khi đi học à.
- Dạ không, giờ ngủ là mạnh ai nấy ngủ. Đã tự thỏa thuận với nhau như vậy.
- Và tình yêu thì thế nào?
- Dạ không thấy gì vì tụi em còn lo học.
- Sợ ông Năm rầy phải không?
- Không đâu. Là lo học. Chớ ông năm đâu có rầy. Ông bà năm hiền lắm.
“Ông bà năm hiền lắm”. Đó là câu cửa miệng của các em. Nhìn ông ai cũng thấy vẻ hiền lộ trên nét mặt đầy đặn và mái tóc trắng phau, nụ cười nhẹ nhàng nhân hậu. Chú Năm To từng là một giáo viên trường kỹ thuật cơ khí An Giang. Cách đây chục năm chú Năm rời trường về quê Thạnh Mỹ Tây hẻo lánh nghèo nàn làm thợ sửa máy. Ngày ngày đi qua lại trên đoạn đường dầy đặt ổ gà ổ voi và nhiều loại ổ khác chú thương những cháu đi học đường xa. Càng thương hơn khi những buổi trưa nhìn các cháu lây lất đâu đó bên lề đường để chờ buổi chiều học trái buổi. Chú Năm đi mua miếng đất cạnh nhà, xây thêm ngôi nhà lớn rồi mua mấy chục cái khung võng về sắp dọc hai bên..
- Đầu tiên là lo cái ngủ trưa để các cháu yên ổn nghỉ ngơi đón buổi học chiều.
Rồi về sau thấy các cháu ăn uống tạm bợ mấy quán lề đường quanh xóm thấy thương, chú bàn với chùa mua gạo mua rau về xào nấu những món chay cho đám trẻ. Từ đó bà năm kiêm luôn phần nấu nướng mỗi buổi trưa. Bà đi chợ mua thực phẩm về nấu mấy chục phần để sẵn trong nồi. Các cháu đói chỉ việc tới lấy phần ăn của mình. Ăn xong cứ để chén đó chiều bà năm rửa. Những cháu nào có tiền, muốn ăn mặn thì hùn thêm mười ngàn bà nấu thêm món mặn. Vậy là không phải chỉ cùng nhau nghỉ trưa mà còn cùng nhau ăn những bữa cơm trưa như một đại gia đình. Về sau thấy học trò có những trường hợp cần ngủ lại chú Năm đóng thêm năm sáu cái giường tre để các cháu có chỗ tá túc qua đêm. Học trò trường trung học phổ thông Thạnh Mỹ Tây cứ thế gắn bó dần dần với ngôi nhà chung, gắn bó với người ông thợ máy có mái tóc trắng phau như ông tiên trong truyện cổ tích.
Chú năm khen các cháu hiền lắm, chỉ giỡn thôi chớ không nói bậy chửi tục. Các cháu khen ông bà năm hiền lắm.
Sự hiền hình như có tính chất lây lan. Để những đứa trẻ không cùng mẹ cùng cha khi tụ hội một nhà lại đối đãi với nhau bằng những nghĩa cử nhẹ nhàng ấm áp như anh em ruột. Những đứa trẻ quê tầm chữ đường xa lại cảm thấy mình không hề cô độc. Ngôi trường quê heo hút xa lơ bỗng trở nên gần gũi như một mái ấm thân yêu nuôi lớn từng cuộc học hành.
Hỏi các em vui nhất khi nào các em nói lúc nào cũng vui vì lúc nào các bạn cũng cà khịa đùa giỡn nhau không phân biệt trai gái cùng lớp hay khác lớp, cùng xã hay khác xã. Hỏi chú năm chú có kỷ niệm gì vui không từ khi mấy đứa nhỏ về nương nhờ bên chú. Chú nói kỷ niệm vui thì không nhớ được. Chú chỉ thấy ngày ngày đảo đảo qua nhà, nhìn dọc theo hàng võng thấy các cháu ăn uống vui vẻ ngon lành, ngủ nghê yên ổn, học hành nề nếp là chú quá vui. Cứ như vậy mà vui hết ngày này qua ngày khác.
Phụ huynh có nói gì không? Họ cứ ghé lại, nói mang ơn này nọ. Rồi có gì cho nấy là thể hiện lòng biết ơn. Còn những người xung quanh nơi địa bàn trường đang đóng? Chính quyền xã thì tạo quỹ học bổng Trần Văn Thành để tiếp sức thêm cho những em nghèo được thẳng bước đến trường. Thầy cô giáo ở tập thể gần Kinh Bảy cũng ghé qua nhà ông Năm giúp dòm ngó các em. Bà con tiểu thương buôn bán ở chợ thì bán rau cải cho thím Năm thì bao giờ cũng nửa bán nửa cho. Họ cũng nghèo nên không thể cho không. Chùa, rồi dinh Đức Cố Quản cũng cho tiền cho gạo để buổi trưa các em không tốn hao khi lưu lại.
Nghe mọi người nói về chuyện học chuyện chơi của các em, tôi thì cứ nhìn chăm chăm vào ngôi nhà rộng. Diện tích đất này, địa thế này nếu nó nằm trong tay người khác thì lập tức nó trở thành một quán cà phê võng hay một quán cơm. Vợ chồng già có thể kiếm được năm mười triệu mỗi tháng bởi tiền buôn bán của mình. Bề thế quán có thể kiếm được đôi ba việc làm cho những lao động nhàn cư. Quanh trường học nào hiện nay cũng có những cái quán như vậy. Để dụ các em trầm quán, để cạnh tranh với những quán bên cạnh, chủ quán phải chìu chuộng các em. Bỏ ra năm ba ngàn mua ly nước, các em được vào cả một thế giới tự do. Chửi tục nói bậy, gieo thù chuốc oán, hài tội cha mẹ thầy cô gì cũng chẳng ai chú ý. Chủ quán mắt lấp tai ngơ để không mất mối. Rồi hút thuốc, rồi cả những trò chơi nguy hiểm khác.
Nhà chú Năm To cũng gần như một cái quán võng lớn, nhưng khi chú Năm không thu tiền, các em bỗng thấy mình cần có trách nhiệm hơn với từng cái võng mình nằm, với từng câu nói mình thốt ra thậm chí cả việc học cũng được quan tâm như một kiểu không phụ lòng người tử tế. Sự tử tế lây truyền từ chú Năm lan qua những em đầu tiên rồi khi lan truyền suốt mấy chục em. Không cần một sự trừng phạt một sự răn đe nào hết, các em tự dựng nên trật tự của cả nhà và duy trì nề nếp đó từ khi mới bắt đầu cho tới tận hôm nay.
Chú Năm To dựng ngôi nhà lên là để cho chớ không định bán bất cứ món gì. Như một kiểu cho đi để lấy lại niềm vui. Nhưng giờ đây chú có thể bán được nhiều thứ. Chú bán được cho các em một mái ấm bình yên để có thể nương vào đó rèn luyện sự lương thiện của mình. Chú bán cho các em một môi trường mà ở đó mỗi em được “gần đèn thì sáng”. Chú bán cho các em những tiếng cười hồn nhiên để con đường học luôn tươi tắn an lành. Chú bán cho phụ huỵnh những bình an trong con đường sinh kế để kiếm tiền nuôi nấng các con. Chú bán cho xã hội một từ tâm để mọi người có thể nhón một chút yêu thương gửi vào những mầm non đang khôn lớn từng ngày. Chú bán đi nhiều thứ để lấy về một thứ duy nhất là niềm vui, niềm an lạc của tuổi già. Niềm an lạc tràn đầy lại tiếp tục được bán ra và bán ra thêm nhiều lần nữa.
Các em học trò quê của trường cấp ba Thạnh Mỹ Tây đang được dưỡng nuôi giữa lòng biết ơn của thầy cô, cha mẹ dành cho ông già năm tóc bạc. Các em đã thuộc lòng bài học nhớ ơn nên đã trả ơn bằng sự hiền dịu giản dị của chính bản thân mình. Rõ ràng đó là mục tiêu của sự học. Sự học nào chỉ gói gọn trong những công thức Toán, Lý, Hóa hay những tác phẩm văn học lừng danh. Món cần thiết của sự học chính là sự sống chung, ơn đền nghĩa trả, là vị tha, là tôn trọng cá tính của nhau để tự do phát triển cá tính của mình. Tự do tuyệt đối là cái tự do có trí tuệ mà ở đó mỗi người cân bằng được sự cho và nhận. Ngôi nhà chung rộn rã của chú Năm là ngôi trường nhỏ dạy bài học lớn về sự cho, nhận vốn đang thiếu giữa cuộc sống chật vật tưởng như rất đỗi khốc liệt này.
Những người chứng kiến những nụ cười của từng thành viên trong ngôi nhà rộn rã kia cũng rưng rưng lây niềm vui cùng ông cháu chú Năm. Bởi mọi người biết bông hoa niềm vui này sẽ theo các em nở tận những giảng đường xa hơn nữa.
Đường về Thạnh Mỹ Tây bao giờ mới thôi lở lói. Những ổ gà ổ voi bao giờ mới được san bằng. Mọi người đang cố gắng để đường xá thuận tiện hơn. Có lẽ lần sau ghé thăm ngôi nhà “ồn ã như cái chợ” đã dễ dàng hơn. Điều đó hình như không còn quan trọng. Bởi hiện tại, trong gian khó hạt giống nghĩa nhân được nẩy mầm, được đổi trao được lan truyền và con đường tầm chữ vừa xa vừa gập ghềnh của các em đã trở nên vô cùng ấm áp.
Võ Diệu Thanh
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét