Tục thờ cúng tổ tiên từ ngàn đời nay đã
trở thành một tập quán tốt đẹp của người Việt. Nhân dân ta quan niệm, ông bà đã
khuất vẫn luôn âm thầm theo dõi và phù hộ con cháu trong công việc, chính vì thế
việc con cháu tôn kính ông bà hiện tiền lẫn người đã khuất cũng được xem như là
một chuẩn mực đạo đức căn bản trong cung cách làm người. Sự sáng tạo của dân ta
được thể hiện qua hình thức thờ cúng kết hợp giữa đạo Phật và tục thờ tổ tiên
có từ khi Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này
qua việc đặt bàn thờ “tiền Phật hậu Linh”, “thượng Phật hạ Linh” tức là bàn thờ
gia tiên được đặt trước, phía dưới hoặc kế bên bàn thờ Phật. Việc cúng lạy hàng
ngày: vừa lễ Phật, vừa lễ gia tiên… Những ngày lễ của đạo Phật, bàn thờ gia
tiên vẫn được trang hoàn, và ngược lại, những ngày lễ của dòng tộc, bàn thờ
Phật khói hương vẫn nghi ngút.
Ngày nay, với sự hội nhập cùng nhiều nền
văn hóa - nhất là văn hóa phương Tây, tuy nhiên truyền thống này vẫn không
ngừng được duy trì và phát triển.
“Chữ rằng: vấn tổ tầm tông,
Cháu con nỡ bỏ cha ông sao đành”
(Ca dao)
Đó là một vài nét về tục lệ thờ cúng tổ
tiên của người Việt, không phải chỉ với bấy nhiêu dòng là có thể khái quát được
cả một tập tục cao quý này, nhưng cũng xin được dùng mấy dòng giới thiệu trên
để khái quát. Trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ xin trình bày về tục
thờ cúng tổ tiên của đồng bào miền Nam, và cũng xin phép gọi là “tục thờ cúng
ông bà” (thay vì “tục thờ cúng gia tiên”) theo như cách gọi dân dã và gần gũi
của người miền Nam.
Từ khi những bước chân đầu tiên vào khai
phá vùng Cửu Long giang, những người lưu dân đã mang theo cả một kho tàng luân
lý, đạo đức vốn đã được kết tinh từ nhiều đời trên đất nước Đại Việt xưa. Đó
cũng là cả một nền văn hóa có sự kết hợp giữa Tam giáo: Phật - Lão - Nho và hơn
hết vẫn là truyền thống “Hiếu nghĩa vi tiên” mà cả ba tôn giáo trên đều khuyên
con người phải chu toàn. Theo quan niệm phương Đông “dương gian âm cảnh đồng
nhứt lý” (cõi nhân gian và cõi âm cùng nhau về lý lẽ) mà đồng bào miền Nam đã
khái quát một cách ngắn gọn, dễ hiểu: “sự mất cũng như sự tồn” cũng đủ cho thấy
sự tôn kính ông bà có vai trò to lớn như thế nào trong tâm thức cộng đồng người
Việt nói chung và đồng bào miền Nam nói riêng. Nguyễn Đình Chiểu viết:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ”
“Ðạo nhà” ở đây là đạo thờ kính ông bà tổ
tiên, nó không đơn thuần là một thứ tôn giáo mà là một tập tục tín ngưỡng, một
loại hình sinh hoạt tâm linh phi giáo điều, giáo lý, cũng không có sự ràng buộc
về hình thức, trái lại tùy vào từng gia đình, từng địa phương có cách thể hiện
lòng kính ngưỡng của mình đối với ông bà cũng khác nhau. Song, xét cho cùng,
đây vẫn là một thuần phong mỹ tục đầy trang trọng, nghiêm túc mà bất cứ một con
người Việt Nam nào cũng không thể xem thường.
Cuối thế kỷ XIX, tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương
và Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời ở vùng phía Tây Nam Đồng bằng Sông Cửu Long đã nêu
ra “Tứ Ân” được xem như tôn chỉ của đạo, gồm: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất
nước, Ân Tam bảo, Ân đồng bào nhân loại. Trong đó, ân tổ tiên được
đưa lên hàng đầu cũng đủ minh chứng được tầm quan trọng của của việc thờ kính
ông bà trong giáo lý của tôn giáo nội sinh ở vùng đất này. Đức Bổn Sư (Ngô Lợi
- người khai mối đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa) cũng đã gọi tôn giáo mình là “đạo ông
bà” - một cách gọi giản dị mà đầy ý nghĩa.
Về việc thờ cúng ông bà của người miền
Nam, hàng năm, cứ đến ngày mất của ông bà thì cả gia đình lại tổ chứ lễ giỗ,
xem như hình thức kỉ niệm và tri ân của con cháu với ông bà đã quá vãng. Sau đó
là cầu xin ông bà phù hộ cho con cháu, và cuối cùng là bữa tiệc ấm cúng của gia
đình. Đây là dịp để dòng họ tề tựu kể cho nhau nghe chuyện mùa màng, công việc,
ngoài ra cũng có sự có mặt của láng giềng, chòm xóm. Đám giỗ ở miền Nam nhất
thiết phải có bốn món cơ bản là hầm, luộc, xào, kho. Hầm ở đây là canh thịt
hầm, có thể là khổ qua, hoặc măng, nhất là măng tre Mạnh Tông ý nhắc đến tích
hiếu thảo của Mạnh Tông ; món luộc vào món xào có nhiều cách chế biến, có khi
là thịt luộc trọn gỏi, cuốn bánh tráng, xào đậu đũa, cải… ; nhưng riêng món kho
thì luôn luôn phải là thịt kho rệu (hay còn gọi thịt kho tàu) - món ăn đặc
trưng của vùng đất này. Ngoài ra, khi trong gia đình, dòng họ có việc gì hệ
trọng, gặp sự cố hay có người đau ốm… con cháu thường cầu xin ông bà để được
phù hộ.
Ngày Tết được xem là ngày quan trọng nhất
trong năm, theo tục lệ cổ truyền thì vào ngày 30 nhân dân rước ông bà về ăn Tết
với gia đình mình. Các gia đình trang hoàn nhà cửa, mua sắm, chuẩn bị thức ăn,
đồ cúng từ rất sớm. Những ngày đầu tiên của năm mới cũng là lúc con cháu tề
tựu, quay quần bên ông bà, làm lễ cúng gia tiên. Dầu nhà nghèo cũng phải cố
gắng nấu bữa cơm để đâng cúng vào mùng một Tết, đơn giản nhưng thành kính. Ở
miền Nam thường không có Từ đường hoặc nhà họ, nhà Tổ… nên địa điểm mà gia đình
chọn để sum vầy chính là nhà của ông bà nội hoặc ông bà ngoại, người đã có công
gầy dựng và duy trì, phát huy gia đình. Đôi khi là nhà của người huynh trưởng
trong trường hợp ông bà cha mẹ đã quá vãng. Có thể nói, Tết là ngày mà con cháu
dầu làm ăn xa cách mấy cũng phải trở về, trước thắp nén nhang trước bàn thờ ông
bà, sau là thăm hỏi nhau sau một năm tất bật làm ăn. Ngày nay, do điều kiện
kinh tế và sự phát triển của xã hội hiện đại, lắm khi con cháu đánh mất phong tục
tốt đẹp này.
Nhà nghiên cứu Lê Văn Ngọc nhận xét: “Thực
ra nếu cứ nhìn vào văn hoá Tây phương làm khuôn mẫu, thì họ không có thờ cúng
tổ tiên như ta thật, mà cũng không vì thế mà mất bản chất con người. Trái lại
không có những thành kiến, những ràng buộc gia đình áp chế tự do cá nhân. Người
ta gọi đó là những hủ bại của gia đình cần phải phá bỏ để cho cá nhân được tự
do.” (Tiểu luận “Thờ cúng Tổ tiên - những yếu tố văn hóa cơ bản của người
Việt Nam” của Lê Văn Ngọc).
Dù cho có bất cứ tôn giáo, triết lý nào
cao siêu đến đâu cũng không thể làm cho người ta bỏ quên tổ tiên được. Cách nay
gần 600 năm, ngay trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định rằng
nhờ sự phù hộ, che chở của tổ tông mà xã tắc mới vững bền: “Thị do thiên địa tổ
tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã”. Thiết nghĩ, gia đình
là một gốc cổ thụ sùm suề, là nơi gieo trồng và nuôi dưỡng hạt giống văn hóa
dân tộc, là cội nguồn của con người. Nếu ông bà ta đã từng nói “giấy rách phải
giữ lấy lề” thì cái truyền thống gia đình chính là cái “lề” ấy.
Chính vì thế, truyền thống gia đình nói
chung và phong tục thờ kính ông bà nói riêng là một nét đẹp - nét đẹp mang đậm
giá trị tinh thần mà không tốn kém nhiều về vật chất, là con người Việt Nam cần
hiểu đúng và gìn đúng giá trị tư tưởng cao đẹp hàng ngàn năm này.
NGUYỄN HUỲNH (tác giả giữ bản quyền)
_______________________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
THƠ ĐỒNG BẰNG & NHỮNG CUNG BẬC
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét