Bình thơ là công việc đòi hỏi có vốn
sống, có trình độ, có khiếu thẫm mỹ, tinh tế và nhạy cảm. Bình thơ còn phải có
phát hiện và giọng riêng. Nó là một công trình vừa mang tính khoa học vừa mang
tính nghệ thuật.
Nhà thơ thì nhiều nhưng những người bình thơ tài năng chỉ có
thể đếm được trên đầu ngón tay. Ở Việt Nam có một vài người bình thơ khá
hay trong đó tôi hết sức khâm phục Hoài Thanh và Xuân Diệu.
Một trong những yếu tố quan trọng tạo
nên sức hấp dẫn của một bài bình thơ là sự phát hiện. Đọc một số bài bình thơ
gần đây được đăng tải trên một số tờ
báo, tạp chí tôi cứ thầy đều đều, bằng lặng ít gây được ấn tượng mạnh có lẽ là vì
thiếu tính phát hiện chăng? Những phát hiện độc đáo của người bình thơ khiến
cho bạn đọc đặc biệt thích thú và khắc
ghi vào trí nhớ chẳng thua gì những câu thơ, tứ thơ, bài thơ hay. Xuân Diệu
từng nói vui: phê bình như bà mối đưa
nàng thơ đến với công chúng. Đôi khi bà mối “tán” hay đến mức công chúng yêu bà
mối hơn cả nàng thơ. Tôi đã đọc những bài bình của Hoài Thanh và Xuân Diệu cách
đây mấy chục năm nhưng đến nay vẫn nhớ như in. Với Hoài Thanh là trường hợp ông
bình bài ca dao Đi lính thú : Ngang lưng
thì thắt bao vàng / Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài, một tay thì cắp hỏa mai
/ Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền / Thùng thùng trống đánh ngũ liên /
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa. Trước khi chưa đọc lời bình của
Hoài Thanh tôi không hề để ý đến con người giả và con người thật trong bài ca
dao. Con người thật chỉ hé lộ ra trong
bốn chữ cuối bài mà làm đảo lộn tất cả. Thì ra bao nhiêu thứ mà triều đình
phong kiến trang bị, nào là bao vàng, nón dấu, súng dài, hỏa mai, giáo… vẫn
không che giấu được cái tâm trạng thực của anh ta. Đây là một phát hiện hết sức
tinh tế của Hoài Thanh. Qua đó, chúng ta càng hiểu hơn cái thật, cái giả trong cuộc đời. Cái giả dù có
ngụy trang đến mấy cũng không che giấu được sự thật. Khi bình đoạn Trao duyên trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoài Thanh cũng có những phát hiện hết sức bất ngờ.
Đang đang cầu xin Thúy Vân “cậy em, em
có chịu lời”, đang kể cho Thúy Vân nghe câu chuyện tình sâu nặng của mình… đột
nhiên Thúy Vân biến mất. Trước mắt Kiều
giờ là Kim Trọng. Và nàng thổn thức: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi, thôi thiếp
đã phụ chàng từ đây. Phát hiện này giúp chúng ta càng hiểu hơn sự biến hóa
tài tình của ngòi bút Nguyễn Du. Xuân Diệu cũng phát hiện khá nhiều điều thú vị
trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Khi “thần đồng thơ” Trần Đăng Khoa xuất hiện,
có thể nói Xuân Diệu là một trong những quảng bá nhiệt tình nhất, hăng hái
nhất. Xuân Diệu viết bài bình, nói
chuyện thơ Trần Đăng Khoa trên Đài Tiếng nói Việt Nam, ở cơ quan, trường học, xí
nghiệp. Thơ Trần Đăng Khoa vốn đã hay đọc và nghe Xuân Diệu bình càng thấy hay
hơn. Tôi nhớ mãi buổi Xuân Diệu nói chuyện với sinh viên khoa Văn, trường Đại học Sư phạm
Vinh ở rừng núi Thạch Thành (1968). Khi nhà thơ đọc bài Con bướm vàng – được
xem là một trong những bài thơ đầu tiên của
Khoa. Trước khi nghe Xuân Diệu bình tôi từng đọc bài thơ này và thấy
không có gì thật đặc sắc:
Con bướm vàng
Con bướm vàng
Bay nhẹ nhàng
Trên bờ cỏ
Em thích quá
Em đuổi theo
Nó vỗ cánh
Vút
lên cao
Em nhìn theo
Con bướm vàng
Con bướm vàng…
Tôi nhớ hôm ấy Xuân Diệu hỏi: Các bạn có biết phải đọc hai
câu đầu và hai câu cuối bài thơ Con bướm vàng như thế nào cho đúng với ý đồ
nghệ thuật của Trần Đăng Khoa không? Tất cả im lặng. Tôi cố tìm câu trả
lời nhưng nghĩ mãi chẳng ra. Ngừng một
lúc, Xuân Diệu cất tiếng: Ở phần đầu phải đọc câu trước nhỏ hơn câu sau. Còn ở
phần cuối thì ngược lại. Ông hỏi tiếp:
Các bạn có biết vì sao phải đọc như thế không?
Tất cả vẫn im lặng. Xuân Diệu giải thích: Con bướm vàng ở phần đầu là
con bướm vàng bay từ xa đến, nó lớn dần. Con bướm vàng ở phần cuối là con bướm
đang bay xa dần, nhỏ dần. Cả hội trường vỗ tay rào rào vì phát hiện độc đáo ấy
của nhà thơ. Tôi thầm nghĩ cậu bé Khoa thuở ấy chỉ mới tám tuổi mà đã có cái “ý
đồ nghệ thuật” như thế thật thì quả là “thần đồng”! Bình bài Sao không về vàng
ơi, Xuân Diệu so sánh hai đoạn thơ Trần Đăng Khoa tả con chó vàng trước và sau
khi mất. Ở đoạn trước:
Tao đi học về
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Còn đoạn sau, Trần Đăng Khoa cố ý
thêm vào hai tính từ chỉ màu sắc: vàng và đen:
Không thấy mày đón tao
Cái đuôi vàng ngoáy tít
Cái mũi đen khịt khịt
Nếu là một cậu bé khác sẽ làm ngược lại vì
đoạn trước con chó đang hiện hữu trước mắt, quan sát cụ thể hơn. Ở đoạn
sau là con chó trong trí nhớ không cụ
thể bằng. Nhưng Trần Đăng Khoa có cái lý riêng của mình. Vì quá thương tiếc con
chó vàng nên khí nhớ về nó thì nó hiện về rõ hơn cả khi nó đang đứng trước mặt.
Thơ trung bình và thơ hay đôi khi chỉ hơn nhau một chút như vậy! Xuân Diệu kết
luận. Nếu không có lời bình của Xuân Diệu chắc ít ai để ý hai tính từ chỉ màu
sắc ở đoạn sau và “cái lý riêng” của cậu bé Trần Đăng Khoa.
Tôi cũng có tham gia bình một số bài thơ. Trong khi
bình tôi tập trung làm rõ những phát hiện riêng của mình. Những phát hiện của
tôi tuy chưa có gì đặc sắc nhưng cũng mạn phép được chép ra đây vài đoạn để bạn
đọc tham khảo. Về hai câu kết trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc / Có chồng hờ hững
cũng như không” nhiều người cho là tác giả mượn lời bà Tú để chửi đời. Tôi
không nghĩ như vậy. Theo tôi, Trần Tế Xương không chỉ thương cái vất vả, lam lũ của
bà Tú: “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”... mà còn thương sự hụt hẫng trong
đời sống tình cảm của bà. Phải thành thật đến mức nào, phải hiểu nỗi niềm bà Tú
đến mức nào nhà thơ mới hạ được hai câu “độc chiêu” như vậy. Sức nặng của bài
thơ dồn nén ở hai câu kết này. Với bà Tú, mọi vất vả khó khăn trong việc buôn
bán làm ăn bà đều chấp nhận. Cả việc nuôi con, nuôi chồng bà cũng “âu đành
phận”. Bà không than phiền, trách cứ gì ông. Điều mà nhà thơ ân hận nhất, day
dứt nhất, cắn rứt lương tâm nhất phải chăng là ông tự thấy có khi, có lúc mình
quả “hờ hững” với bà Tú, “hờ hững” với người đang “lặn lội thân cò”, “eo sèo
mặt nước” để nuôi con, để nuôi cả chính mình. Cái “hờ hững” ấy quả thật là đáng
trách. Nhà thơ hiểu rằng cái sự “hờ hững” ấy của ông đã làm cho bà Tú phải bao
đêm trằn trọc, thao thức, đau khổ… Chính sự “hờ hững” này mà ông Tú cảm
thấy mình “ăn ở bạc” với bà. Người ta đầu tắt mặt tối nuôi mình, nuôi con mà
mình lại vẩn vơ tơ tưởng đến người khác là “ăn ở bạc” chứ còn gì nữa! Từ “hờ
hững” là từ đắt nhất trong toàn bộ bài thơ vì nó chứa đựng rất nhiều tầng nghĩa
.“Có chồng hờ hững cũng như không” đâu chỉ là tiếng lòng của bà Tú mà đó
cũng là tiếng lòng của tất cả những người phụ nữ có chồng trên thế gian này.
Còn đây là phát hiện nhỏ của tôi về người đưa tiễn trong bài
thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm. Khi bình Tống biệt hành, các bài viết thường quan tâm đặc biệt đến
người ra đi. Trong khi đó theo tôi mấu chốt bài thơ chính lại nằm ở người đưa
tiễn. Người ra đi chủ yếu được thể hiện qua lời độc thoại nội tâm của người đưa
tiễn. “Ta” đang nói với chính mình. Kiểu xưng “ta” và “người” đã phần nào giúp
tôi đoán được mối quan hệ đặc biệt của họ. Trần Tế Xương đã từng nhắn gửi với
người mình yêu: “Ta nhớ người xa cách núi
sông...”; Nguyễn Du cũng từng để nàng Kiều tự dằn vặt mình: “Vì ta khăng khít cho người dở dang...”.
Qua giọng thơ trữ tình, qua cách xưng hô và chủ yếu là qua sự bộc bạch nội tâm
trong Tống biệt hành cho tôi tin chắc
rằng Thâm Tâm đã nhập vai bạn gái của người ra đi. Nàng rất hiểu, rất yêu chàng
trai nhưng tình yêu đang còn dồn nén trong lòng. Chính sự dồn nén ấy đã tạo ra
chất giọng trữ tình, sâu lắng rất khó nhận diện trong suốt bài thơ.
Hãy thử đọc lại bốn câu mở đầu:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
“Tiếng sóng lòng” và
“hoàng hôn” chỉ có “ta” nghe, “ta” thấy, “ta” ngạc nhiên và “ta” tự đặt câu hỏi
với chính mình. Đó chính là nỗi vấn vương, nỗi buồn mênh mông của người đưa
tiễn. Nàng ngạc nhiên chính vì mãi đến lúc đưa tiễn nàng mới cảm hết nỗi trống
vắng trong tâm hồn khi biết rằng người mà mình thầm yêu, trộm nhớ ra đi không
hẹn ngày trở lại. Nàng tự thú với lòng:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
“Ta chỉ đưa người ấy” là một cách nói tránh rất tế nhị, rất
kín đáo. Điều nàng muốn khẳng định với mình là: ta yêu người ấy! Có điều giữa
ta và chàng chưa ai dám thể hiện ra bên ngoài. Cả hai cố làm ra vẻ “dửng dưng”.
Khổ kết bài thơ vẫn là lời độc thoại của người đưa tiễn:
Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
“Người ấy” đã ra đi mà nàng vẫn không tin. Nhưng sự thực vẫn
là sự thực! Sự thực ấy làm lòng nàng quặn thắt. Câu thơ chứa đựng nỗi niềm đầy
luyến tiếc, đầy day dứt của người đưa tiễn. Tất cả những trạng thái tình cảm đó
nàng dồn nén vào bên trong, nàng tự biết với lòng mình. Không tìm hiểu mối quan
hệ đặc biệt giữa người ra đi với người đưa tiễn, không đi sâu phân tích nội tâm của người đưa
tiễn thì rất khó lí giải được một số câu thơ có vẻ khó hiểu trong Tống biệt hành.
Công việc bình thơ là một công việc tuy khó nhưng hết sức lý
thú. Mỗi khi phát hiện được vẻ đẹp ẩn chứa trong những câu thơ, bài thơ mà mình
ưa thích và nói được những điều mình cảm, mình nghĩ để mọi người cùng chia sẻ
là niềm hạnh phúc lớn lao đối với tôi.
MAI VĂN HOAN (tác giả giữ bản quyền)
__________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét