Mẹ bấm những nón chân xuống bờ ao đất nhũn và ướt rượt, một
tay víu chặt lấy thân cây ổi chắc nịch. Bố trong nhà lầm rầm chả biết thương
hay chửi “Mẹ nó trưa cứ hành xác ngoài nắng. Ra bảo mẹ mày về”. Ông kéo một
hơi dài thật dài, nhả chậm rãi, rồi miên man theo khói thuốc đục ngầu. Nghĩ thế
nào, vừa bước tới bậu cửa, ông gọi tôi lại.
- Mày đi xin cho bố một nhúm thuốc lào.
Tôi “vâng ạ” lầm lũi. Chạy ra tới ngõ thì chạm mặt mẹ. Mặt mẹ
vừa hong nắng, đỏ hừng hực, đổ mấy giọt tanh. Tay chân mẹ bám chi
chít những bèo con mới đẻ. “Điđâu?”. Một câu gọn lỏn. Vừa lạnh vừa thô kệch,
hầm hừ. Nhưng lắm tầng nghĩa. Đi đâu giờ này cho bóng nắng đổ ngập đầu? Chân khập
khễnh bước xuống sao được con ngõ dốc? Chao chát như tiếng mắng, nhưng ấy là mẹ
lo. Ba tuổi, tôi bị cơn sốt viêm não Nhật Bản đánh gục chân phải, muốn xuống
ngõ dốc, phải dựa dẫm vào hàng rào tre, tự tay mẹ ken lấy.
- Con đi xin thuốc lào cho bố.
- Miệng hôi rình còn lào liếc gì. Về!
Chữ “Về” dằn xong, mà thấy bước đi của mẹ nặng nhọc. Đợi mẹ
thêm dăm bảy bước, tôi cũng lích nhích đi xuống đường. Khoảng áo bèo lốm đốm
vài lá xanh. Mẹ cũng gan, xa tít còn khều vợt ra cho kì được. Mươi mười bữa nữa,
bèo con lại nở lan, chưa kịp đến “thì”, sẽ lại lọt thỏm vào miệng vợt. Mà trời
cứ nắng như đổ lửa hoài, chắc gì bèo con đã nở? Cá rô, cá cảnh còn chết cong, lềnh
phềnh trên mặt nước cũng bởi mùa nắng năm nay dài quá.
Vào tới sân nhà ông Sĩ, gọi năm lần bảy lượt, mà mấy con chó
dữ hằng ngày, hôm nay ăn phải gì mà im ỉm. Đứng cạnh cây na một hồi, thấy vài
quả lốm đốm vết thâm sì, tưởng đâu chín mà thằng Bửn nhà ông ấy chả buồn ngó tới,
lại lén đưa tay lên nắn nắn. Na còn xanh lét, hình như lại bởi nắng quái hun
màu xám xịt. Mà biết đâu đó, hồi nó vừa mở mắt, thằng Bửn chiều nào cũng lấy
tay thăm bóp nó vài lần. Bước thêm vài bước, dúi một con mắt vào khe hở của tấm
cửa gỗ, trộm nghĩ ông Sĩ còn say giấc, nào ngờ trong nhà cũng vắng teo.
Vào sân nhà bà Phụng, cái ngữ nghiện trầu như bà ấy thì chả
bao giờ túng thuốc lào trong túi. Cả đàn chó con nhao nhao vừa cắn xỉa vừa giật
lùi theo bước tiến của tôi. Bà Phụng hây hây xua đàn chó từ trong buồng, rồi vọng
ra qua tấm mành chắn cửa sổ.
- Ai đó?
Năm mấy tuổi rồi mà cái giọng còn thánh thót.
- Dạ, cháu con bố Bắc, qua xin bà ít thuốc lào ạ.
- Không còn đâu. Về nhớ khép cổng lại giùm cái.
Giọng bỗng chùng xuống, lạnh queo. Nghĩ ngợi thế nào, bà lại
ra, dúi vào tay tôi một nhúm vụn vụn. Tôi khum chặt những ngón tay lại cho khỏi
rơi. Bà Phụng đưa những ngón tay nhăn gầy, vuốt má tôi, nói ngọt như đường thốt
nốt: “Con gái bố Bắc, xinh đáo để”.
Ở cái làng này lắm kẻ sống bằng mấy mặt người, ẩm ương như
thời tiết, chẳng biết đâu mà lần. Sáng ra chạm mặt nhau có khi nói lời dẻo quẹo,
mà trưa đã ngó đầu sang nhà bên kia để chửi đổng chỉ vì con gà không dưng bị mất.
Chân tập tễnh chỉ chạy qua dăm ba nhà quanh quẩn cái khoảng ao xanh bèo, nhưng
biết tỏng từng mặt người dạ quỷ. Tôi quay ra, gáy còn ớn lạnh bởi cái giọng
nhuyễn như mèn mén của bà Phụng. Tôi nhổ toẹt một bãi nước bọt dưới ngay ở cổng.
Hai con chó con chui mũi giành nhau liếm. Loài chó ắt sống bằng một mặt, có cắn
người cũng vì trung thành với chủ, mà liếm chân chủ cũng vì rất mực yêu thương.
Tôi lại lích nhích ven theo đường rào uốn lượn theo con dốc đứng.
Về tới sân vẫn thấy mẹ loay hoay rửa bèo ngoài giếng nước
làu bàu câu gì đó trong miệng. Bố gác chân lên ghế, giọng lẩy bẩy như thèm thuốc.
Tôi úp lòng bàn tay gọn lỏn vào hộp đựng thuốc lào bố làm bằng hộp xi đánh giày
màu đen có in hình con ngựa.
- Xin nhà ai đây?
- Bà Phụng ạ.
- Con mụ già sao mà keo thế chứ. Vụn tơi thế này nhét
sao cho vừa cái lỗ điếu.
Bố rúm rúm, rắc rắc cho vụn rơi xuống, lọc lấy những sợi thuốc
dài, cũng vừa vặn một điếu. Bố tần ngần dúi vào lỗ điếu, kéo hơi bị hụt, bố dằn
cái điếu trúc xuống gầm bàn. Bố đi ra ngõ, nhòa theo bóng nắng.
Đêm qua thấy mẹ hái mấy quả bầu đất, mướp hương. Rạng sáng,
mẹ nịt chặt bì vào xe, lao vút xuống con dốc mờ sương. Tiếng xe kèn kẹt vừa dứt,
bố đã tỉnh dậy, lạo xạo trong buồng tìm thứ gì đó. Bố lay tôi dậy, thều thào:
“Mày có biết tiền bán trâu mẹ mày để đâu không?” Tôi dụi mắt, lắc đầu. Bố đảo
tung mù những nia, những giỏ, những chum, những vại. Hình như dò được bọc tiền
mẹ cất giấu, bố cười khầng khậc. Tôi lao xuống giường, ôm ghì lấy chân bố, gào
lên:
- Con xin bố, bố đừng lấy tiền của mẹ, mẹ gom tiền để
chữa chân cho con. Bố đừng đi, bố ơi.
Bố day day cái chân hệt như con trâu bị ngứa cố day cho con
đỉa đói dứt ra, tôi càng siết chặt lấy. Bố trợn mắt, con mắt trắng dã nuốt chửng
tôi. “Mày không phải con tao”.
Giọng bố gãy gụa, mà từng chữ cứ xoắn xít trong đầu óc tôi.
Bàn tay mềm nhũn, buông thõng ra khỏi chân bố. Hai vai bủn rủn như lúc tiết trời
sắp chuyển mùa. Chân bị bại liệt mười mấy năm nay bỗng nhói buốt. Hắng giọng
mãi cổ họng mới bớt nghèn nghẹn. Ngửa mặt lên thấy nắng dột qua vài khe hở của
mấy tấm ngói ken lỏng. Nắng hắt gồn gột vào da mặt mới biết mình không ở cõi
mơ. Biết bao giờ trời thương cánh bèo đổ một cơn mưa? Mà mưa rồi lấy ai bắc
thang lên che cho kín ngói? Bố ơi, bố đừng đi…
Mẹ về đến cổng, dựng xe vào vách bếp, mặt hơn hớn:
- Hôm nay chẳng ế thứ gì. Mấy quả mướp hương, vừa đổ ra
người ta đã giành mua. Con gái thấy mẹ có may không chứ.
Hiếm lắm mẹ mới có một ngày vui. Và hiếm lắm mẹ mới gọi tôi
là “con gái”. Nhưng mấy chữ bố ném lại trước lúc đi còn ong ong tâm trí.
Mặn mà sao nổi với lời ngọt hiếm hoi kia? Tôi gắng gượng, nấn ná cho mẹ
vui thêm chút đỉnh. Mẹ cười ha hả lúc tháo dây nịt giằng ở ghế ngồi xe đạp. Tiếng
cười vừa dứt, mẹ lại cằn nhằn
- Bố mày ngủ gì ngủ kĩ thế, vào gọi bố dạy còn đi tát
nước trên Cồn Đâu.
- Bố đi rồi.
Mấy chữ cứ thản nhiên trôi ra khỏi miệng.
- Bố mày đi đâu, hay sáng ra lại qua nhà nào bắn thuốc
lào rồi.
- Bố không về nữa rồi mẹ ơi.
Nói đến đấy, tôi bật khóc. Mẹ khựng lại ở nút thắt dây nịt
cuối cùng. Mẹ luống cuống chạy vào lục cái chum lúa nếp. Mẹ lao ra khỏi cửa,
bóng mẹ xô về phía nắng trên ở ngõ dốc liêu xiêu. Mẹ đi tìm bố. Không, mẹ đi
tìm bọc tiền, đi tìm ước mơ của tôi.
Bố biệt tăm từ dạo ấy. Mẹ bất lực, không còn mong ngóng tin
bố. Nghĩ mà thương mẹ, cả đời cõng trên lưng mơ ước của tôi, ước mơ một ngày đi
vững vàng hơn bằng đôi chân, đến phút cuối lại bị bố phá nát. Nắng sau mưa héo
rũ, xác nắng còn đọng lại trên mái lá tranh đen ngòm khói rạ. Nụ cười của mẹ
cũng héo.
Dạo này mẹ nhận thêm cái chức tổ phó tổ nông dân, đâu một
quý được dăm bảy chục. Nào có nhàn, thấy ngày nào mẹ cũng loay hoay với mấy cuốn
sổ viết rồi xé đi. Không có máy tính, lại tiếc mấy trang giấy trắng, mẹ đánh liều
nháp vào bắp chân và đùi nhoe nhoét, lội ruộng một buổi chiều là vết mực cũng sạch
trơn. Tổ trưởng tổ nông dân là bác Chàm, trạc tuổi bố nhưng mỏi mòn rồi mà chưa
vợ. Thi thoảng bác ghé qua, dựng xe ở vách bếp, kẹp cuốn sổ ở nách bước vào.
Bác Chàm ở tận cuối xóm, chỉ mỗi dịp Tết, tôi mới có dịp đi khắp. Cái chân khập
khễnh đi được đến nhà bác Chàm thì chắc là rệu rã, không còn sức mà quay về.
Bác Chàm lần nào qua cũng có xoài xanh rôn rốt, hay vài qua na ngọt lịm
mang cho tôi. Mẹ biết bác sang, tất tả xách ấm tích đi pha chè xanh nóng.
Tôi quý bác Chàm lắm. Cái mái nhà dột cũng là bác sửa sang, che chắn. Cái hàng
rào tre bị con bò ngứa sừng húc gãy, bác cũng giằng lại cho chắc. Bác cởi trần
thau giếng giúp mẹ con tôi. Thảng hoặc, mẹ bắt được con cá rô đồng, đều gọi bác
qua ăn. Dần dà, thấy bác Chàm chăm chỉ, chất phác, mẹ cũng thương thương. Có
đêm, mẹ từ buồng trong nói vọng ra:
- Mày thấy bác Chàm sao?
- Ờ thì cũng hiền hiền, dễ gần. Mà sao mẹ hỏi vậy?
- Mẹ thương bác ấy rồi phải không?
Mẹ im bặt, chắc là miên man nhớ bố.
Bác Chàm thường ghé qua hơn mỗi ngày. Có đêm bác ngủ lại
cùng mẹ ở gian buồng. Tôi giờ đã lớn, cũng hiểu rằng mẹ cần có người đàn ông để
bấu víu, nương vai. Hàng xóm với nhau mấy chục năm trời, chắc cũng đủ thấu lòng
nhau.
Tôi gặp cơn ác mộng, bố trở về khi túi tiền đã cạn khô, xồng
xộc vào nhà đòi mẹ đưa tiền. Tôi ghì chặt lấy chân bố, van vỉ. Bố day day chân
rồi đạp mạnh tôi ngã nhào ra đất “Mày không phải là con tao. Mày không phải là
con tao…”. Tôi giật mình bật dậy, sờ lên trán ướt rượt cứ nghĩ chỗ nằm bị dột
mưa. Đầu óc váng vất câu nói của bố. Từ khi bố ôm theo ước mơ của tôc lao xuống
ngõ dốc, tôi chưa một lần hỏi mẹ về chuyện ấy. Tiếng mẹ và bác Chàm thì thào
trong buồng.
- Anh muốn chữa chân cho bé Na, anh và em cố gắng cuối
năm nay đưa bé Na đi chữa trị nhé? Anh có chút tiền tiết kiệm được mấy năm nay,
sáng ra anh sẽ đưa em cất giữ, gom góp dần.
- Cảm ơn anh đã thương con em. – Mẹ mếu máo, lẩy bẩy. –
Cái lão già chết tiệt ấy đã lấy hết số tiền của em đi rồi. May mà em còn cất một
ít chỗ khác. Em đưa anh giữ, chứ để ở trong nhà, biết đâu lão ấy về đột ngột, lại
thêm một bận khổ.
Tôi thương mẹ và bác Chàm, cả cuộc đời mẹ đã đi mòn ngõ dốc
chênh vênh cõng trên lưng ước mơ của tôi. Những nếp nhăn xô lại ở khóe mắt như
đang rượt đuổi theo thời gian mỗi ngày một dày hơn.
Mẹ đang bằm rau cho lợn, mặt tươi như hoa:
- Na này, có thích có em không?
- Thật hả mẹ, mẹ có em bé rồi phải không?
Mẹ thẹn thùng, chùi tay xanh rờn xác rau vào ống quần, rồi
cúi mặt xuống, xoa bàn tay chai sần vào bụng, tủm tỉm cười. Tiếng bác Mừng thất
thanh từ cuối ngõ dốc.
- Nhà chị Huyên ơi, gã Chàm vừa leo lên tàu đi rồi.
Mẹ thất thần, buông con dao xuống, gào khóc nức nở “Tiền của
tôi, tôi phải chữa chân cho con gái tôi. Ông trời đang trừng phạt tôi sao trời
ơi. Tôi dựa dẫm vào đàn ông chỉ để mong chữa khỏi chân cho con tôi mà sao cuộc
đời cay nghiệt với tôi thế hả. Con tôi có lỗi gì mà ông trời không thương con
tôi, hỡi giời.”
Người sống cùng mẹ con tôi mười mấy năm trời mà tôi gọi là
cha, rồi cả bác Chàm, hóa ra chỉ là chỗ dựa của mẹ để lưng gầy đỡ nặng khi cõng
trên lưng ước mơ lớn của tôi. Đứa em tôi chào đời, sẽ như tôi, rồi cũng lạc mất
cha. Hóa ra tôi đã quên, quên cái bãi nước bọt tôi nhổ toẹt ở cổng nhà bà Phụng,
cứ ngỡ rằng đã biết tỏng từng mặt người dạ quỷ…
DƯƠNG HẰNG (tác giả giữ bản quyền)
__________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét