Tản Đà - Nguyễn
Khắc Hiếu đã vô mây khói gần hai phần
ba thế kỷ rồi. Tiên sinh từ giã cõi đời này khi tròn năm mươi tuổi (1889-1939).
Trước đó một năm (1938) ông đã nói vui, tiên đoán về hậu vận của mình:
Ngoài trăm tuổi vắng ta trên trần thế
Xuân nhớ ta
chưa dễ biết đâu tìm
Thế mà ông đã
vội ra đi, để lại bao Khối tình con
I-II-III, Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ, Giấc mộng lớn, Giấc mộng con…
cho hậu thế. Ông là cái gạch nối giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX, giữa Thơ cũ và
Thơ mới, là chàng trai si tình, là nhà Nho tài tử, là nhà thơ ngông một thời. Thơ văn của ông không những
bày bán khắp phố phường mà ông còn tưởng tượng đem thơ lên bán chợ Trời, đọc thơ cho Ngọc Hoàng nghe. Có
lúc ông than thở với chị Hằng: Đêm thu buồn
lắm chị Hằng ơi/ Trần thế nay em chán nửa rồi (Muốn làm thằng Cuội). Và suốt đời Tản Đà ôm nhiều mộng tưởng, xem
khinh chuyện đói nghèo, cho dù Cơm áo không
đùa với khách thơ (Xuân Diệu), ông vẫn tự bạch:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thì có cửa nhà thì không
Nửa đời Nam, Bắc,
Tây, Đông
Bạn bè xum họp, vợ
chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp
ba kỳ
Lạ chi rừng biển,
thiếu gì gió trăng
Thú ăn chơi cũng gọi rằng
Mà xem chửa dễ ai bằng
thế gian…
Và ông vẫn vui, vẫn cười, vẫn ngông trong tâm thế vong bần
lạc đạo của một Nho sĩ: Người ta hơn
tớ cái phong lưu/ Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo, và ông quan niệm:
Bạc tiền gió thoảng: thơ đầy túi
Danh lợi bèo trôi: rượu nặng vai.
(Tự vịnh)
Thế nhưng có
lúc ông phải quay về với thực tại, đối mặt với chuyện áo cơm đến phũ phàng, cười
ra nước mắt:
Trời ơi, ơi Tết ơi là Tết
Bác hãy còn
hơn, tôi mới chết.
…Trời còn để
sống đến trăm năm
Lại mấy mươi
bài thơ khóc Tết.
(Khóc Tết)
Thi sĩ đã dành hẳn một tập Tản Đà xuân sắc để gởi hồn mình vào tình
Xuân mỗi khi Tết đến. Ông đã viết hàng loạt bài thơ về mùa Xuân như: Gặp xuân, Xuân cảm, Xuân sầu, Nhớ xuân, Khóc xuân, Xuân tứ, Ngày xuân chúc quốc dân, Ngày xuân thơ rượu… Gặp nàng Xuân, ông tự
giới thiệu ngay: Trời Nam thằng kiết là tôi,
nhưng ông luôn tự hào mình là người rất giàu thơ và rượu, cũng như mùa
Xuân không bao giờ mất đi trên thế gian này, thì với ông mùa xuân đồng nghĩa với
rượu và thơ:
Còn thơ, còn rượu, còn xuân mãi
Còn mãi xuân, còn rượu
với thơ.
(Ngày xuân thơ rượu)
Mùa xuân của đất trời cứ theo quy luật
của tạo hoá tới rồi lại đi. Nó hiện hữu trên hoa đào, hoa mai khoe sắc, trên cánh
én liệng giữa trời xanh, hay trên má gái
chưa chồng. Với Tản Đà là còn rượu, còn
thơ trước đã rồi mới còn xuân mãi.
Nhưng nếu không còn mùa xuân thì thơ và rượu cũng trở nên vô nghĩa. Thế mới biết
sắc xuân trong thơ ông mãnh liệt biết
dường nào! Bầu rượu túi thơ là niềm
vui thanh cao, nguồn thi hứng của biết bao tao nhân mặc khách ngày trước. Tản Đà
tiên sinh cũng không nằm ngoài quy luật ấy:
Công danh sự nghiệp mặc đời
Bên thời be rượu,
bên thời bài thơ.
(Tản Đà xuân sắc)
Ngày xuân ông
sẽ say mặc cho trời đất thế nào, bởi vì Đất
say, đất cũng lăn quay/ Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười cơ mà. Cảnh đời là
gió gió mưa mưa nên ông luôn phải có
thơ-rượu để buồn với trăng, để sầu với xuân… Mùa xuân tơi, niềm vui tràn
ngập trong lòng người và tạo vật, cớ sao ông lại sầu, lại buồn, lại chán đời và
lòng thì rối như tơ vò, với một nỗi đau
nhân thế vời vợi như vậy? Trong bài Năm hết
hữu cảm ông buông một tiếng thở dài đến ngao ngán:
Đời người lo mãi biết bao thôi
Mái tóc xanh
xanh trắng hết rồi
Sự nghiệp nghìn
thu xa vút mắt
Tài tình một gánh nặng bên
vai.
Càng về già ông
càng lâm vào cảnh túng quẫn. Nhìn cành mai sương phủ, biết là Tết sắp đến. Nhìn
cánh én báo tin xuân, ông lại quên đi thời thế đảo điên để mừng cho thiên hạ. Ông
có lời chúc cho xuân, cho con người ai cũng
có tư cách/ Trước hết ái quốc, sau hợp quần. Ở đây tư tưởng yêu nước của Tản
Đà đã bộc lộ trực tiếp chứ không còn xa xôi, bóng gió như trong bài Thề non nước hay như ở Bức dư đồ rách nữa, và ông đặt niềm tin
vào sự đổi mới, mà trước hết là đổi mới sự học:Cái học năm xưa đã cũ rồi/ Học cũ đi mà xuân lại mới, rồi ông tâm tình
với nàng xuân:
Gặp ta
nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có bạc nhưng lòng ta chẳng khác.
(Gặp xuân)
Lộc trời ai mà tham được, tóc kia dù đã bạc đi nhưng lòng
vẫn xanh mãi với mùa xuân, đó là điều không phải ai cũng có được:
Núi non trăng cũng chưa già
Đầu ai tóc bạc
vẫn là xuân xanh.
Tản Đà-tiên
sinh không bao giờ già trước mùa xuân, trước khối tình nước non, và trong
ông giấc mộng về non nước chẳng bao giờ phai. Chỉ khi nào:
Bao giờ Trời gọi thì đi
Giang sơn cất
gánh ta thì nghỉ ngơi.
Tản Đà- Nguyễn Khắc Hiếu là người
của trời sinh, nhưng Tài cao phận thấp chí
khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương. Mùa xuân này nỗi đau của thi nhân
đã qua. Các thế hệ con cháu của nhà thơ núi
Tản sông Đà không còn phải khóc Tết
như tiên sinh năm nào nữa. Ta như thấy ông đang đâu đây ngất ngưởng với be rượu,
túi thơ đi thăm lại Mả cũ bên đường
khi Tết đến, rồi vụt biến vào chốn Thiên Thai. Ước mơ của ông làm đôi chim nhạn tung trời mà bay để chào
đón những mùa xuân bất tận quả là quý lắm thay!
LÊ XUÂN (tác giả giữ bản quyền)
_______________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
KỶ NIỆM 75 NĂM MẤT NHÀ THƠ TẢN ĐÀ (7/6/1939 - 7/6/2014)
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét