Cầm trên tay tập thơ “Ru giấc phù sa” của nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều (Hội
viên Hội Văn học Nghệ thuật Cà Mau), tôi thấy đồng hiện trước mắt tôi một đồng
bằng Chín khúc phì nhiêu trải ra như tiếng đàn kìm thở dài của người dân miền
Tây Nam bộ, thấm đẫm chất tài tử sông nước miệt vườn.
Toàn bộ tập thơ vẻn vẹn
39 bài như đưa ta cùng chuyến viễn du trở
về với tình đất và tình người Phương Nam trăm thương ngàn mến. Có lẽ nơi đây “Mỗi tấc đất quê hương là mỗi giọt máu cội nguồn” (Châu thổ) đã cưu mang và
sinh thành nên một hồn thơ đặc trưng ấy.
Huỳnh Thúy Kiều là tác giả sở hữu ba tập thơ. Sự xuất hiện của chị trên
thi đàn những năm gần đây làm cho độc giả chú ý nhiều hơn về một giọng thơ nữ
trẻ đồng bằng đầy triển vọng của nền văn học vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng và văn học cả nước nói chung.
Sau thành công của tập “Kiều Mây” - NXB Văn học 2008 ( đạt giải thưởng của
Liên Hiệp các Hội văn học nghệ thuật VN năm 2009), tạo cú hích cho chị viết tiếp”
Giấu anh vào cỏ xanh” - NXB Văn học 2010. Và chị liên tục nhận được nhiều giải
thưởng uy tín khác trên văn đàn. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan trong đời
sống riêng tư, có lúc tưởng chừng như chị buông tất cả. Sau “ Giấu anh vào cỏ
xanh”, chị để độc giả phải chờ đợi khá lâu. Nhưng may mắn thay, nói như nhà thơ
Trúc Linh Lan “Thơ là cách để cứu vớt tâm hồn, cứu vớt nỗi đau, nỗi cô đơn tuyệt vọng, thơ là cứu cánh của những khát vọng,
những cái đẹp không vươn tới được, những nỗi buồn không tên”, Huỳnh Thúy Kiều một
lần nữa lại tìm về với thơ, như Phùng Quán thi sĩ ”Có những phút ngã lòng/ Tôi
vịn câu thơ mà đứng dậy”. Mãi đến tận bảy năm sau đó, chị mới công bố “Ru giấc
phù sa” NXB Phương Đông 2017, đánh dấu sự
trở lại của một hồn thơ đầy “mùi bùn đất” (Ngô Minh).
“Giấc phù sa/ Ru bản nhạc hiệu đồng bằng/ Này tiếng ễnh ương, ếch nhái/ Những
bàn chân lắm bùn bước tới/ Giữa rốn lũ ngậm ngùi chan nghẹn chén cơm lưng/
Phương Nam! Phương Nam!/ Ru giấc phù sa xanh rễ mượt mềm/ … Chín ngả rẽ/ Trôi hướng
nào cũng bắt đầu từ thượng nguồn mẹ Mêkông đang ầm ầm bừng thức/ Khát vọng đồng
bằng ru giấc phù sa!” (Ru giấc phù sa)
Thơ Huỳnh Thúy Kiều đậm đà chất quê kiểng, mang hơi thở hồn hậu, đầy chất
trữ tình sông nước Cà Mau. Là tiếng nói của người gọi dậy miền đất Chín Rồng.
Thơ chị chiết xuất từ chất liệu “bùn đất”. Rất dễ dàng tìm thấy những
câu đại loại: "… Em hứng nắng xanh mùa lũ/ Nhuộm phù sa châu thổ lên nỗi buồn/ Khâu
ngàn vạn lá tràm U Minh thành tấm áo ngày đông trốn bấc" (Dư âm), “Anh cầu nguyện nổi chìm lênh đênh phù phiếm/ nụ thời gian
giăng khoảng trời tơ nhện/ Theo em về treo cây bẹo giữa ngã ba sông” (Nỗi niềm phù sa). Chị đưa vào những từ ngữ là lời ăn tiếng nói đặc sệt chất miền sông nước
như: cây bẹo, con nước lớn ròng, neo bến chợ, nổi nênh, bến nước (Em giặt áo
bà ba và gội đầu bên bến nước), mái chèo (Mái chèo khua nhịp lở), quả bần “Cắn
quả bần chua ngỡ hương sấu bay theo suối tóc”…
Đến với thơ Huỳnh Thúy Kiều, ta có cảm giác như tác giả “bưng” hết quê
hương vào trong trang viết với bao ân tình, thủy chung. Từng cảnh sắc thiên
nhiên và con người được chị tái hiện hết sức “đồng bằng” qua những vần thơ tươi
nguyên, đầy chất tài tử: “Cầm cây sào tôi chống ngược về phía ngày xưa/ Mẹ búi
tóc củ co ngồi bên hiên nhà khâu ký ức/ Cha bập bập điếu thuốc rê quấn giấy
pơ-luya khói bay xông tiềm thức/ … Cá lóc nướng trui ăn với gạo nàng thơm chợ Đào
gọi mùa vụ mới/Vị đồng bằng khề khà từng ly đế nồng nàn diệu vợi/Thương hồ hát,
thương hồ nghe giữa những cây bẹo rao hàng (Về
một vầng trăng). Cái chất phác, thật thà có từ trong hơi thở từ lúc mới
sinh ra. Lòng dạ người thẳng ngay, trìu mến, không một mảy may so đo, cân tính.
Cái chất ấy là chất phù sa trong tâm tưởng nuôi dưỡng lòng người, mà dù có đi
đâu cũng nhớ canh cánh khôn nguôi. Bản sắc Nam bộ là thế, đặc biệt là người miền
Tây.
Trong bài “Cửu Long” những hình
ảnh dung dị quê hương chỉ có thể bắt gặp lại nơi đây: “Phù sa di cư theo những
đêm trắng không màu/ Nhuộm đỏ đồng bằng qua ký ức nhớ thương rất đơn sơ giản dị/ Sẽ
thành kỷ vật những củ co, trái bình bát, trái ô môi, đọt choại xanh, đọt
ráng/ Chỗ cha ông nằm nước liếm cả mép đất vuông. “Mang nặng trong tim túi hành
trang là miền quê sinh thành nên hồn thơ, chị như thấy mình quá nhiều nần nợ với
nơi chôn nhau cắt rốn. Để rồi một ngày chị chợt nhận ra mình thật nhỏ nhoi, dẫu có “Đi suốt cuộc đời/ Qua hết cả thảy
những bãi hoang, gò, miếu/ Vẫn thấy mình bé nhỏ trước tên gọi chín dòng sông”.
Hai tiếng quê hương trong thơ Huỳnh Thúy Kiều chan chứa biết bao ân
tình. Chị gắn bó máu thịt với miền đất sinh thành ra mình, nơi khởi phát dòng
sông thơ ca dạt dào chảy qua tâm hồn vốn nhạy cảm của chị. Chính nguồn cảm hứng
từ ca dao dân gian đã thấm sâu vào huyết
quản, thôi thúc chị chắp bút viết nên những vần thơ đầy duyên nợ. "Bài học đầu
tiên mẹ dạy tôi bằng ca dao tục ngữ/ Những cù lao xanh mầm yêu thương vắt dọc
ngang châu thổ/ ... Vầng trăng tha phương dìu nỗi nhớ quay về" (Cửu Long). Hay
khi chị viết “Cho miền đất yêu thương”,
một miền quê hiện ra thật gần gũi trong tiếng chày nhặt thưa, tiếng lửa reo báo
hiệu mùa vụ no ấm…” Ai quết bánh phồng/ Vẳng nhịp chày cuối xóm/ Củi tàu dừa tí
tách lửa reo”. Và hình ảnh người cha tất
tả, thân thương như một nốt lặng giữa đời: "Cánh đồng trĩu vàng bông lúa/ Ba
gánh hết nhọc nhằn trải sân phơi/ con len lén đếm mồ hôi người nhỏ giọt". Chừng
đó cũng đủ làm nên hạnh phúc cho con người. Mà cũng chẳng thể tìm hạnh phúc nơi
đâu, không cần cất công đi tìm, hạnh phúc nằm chính chỗ chị đứng, nơi mảnh đất
phù sa châu thổ hào phóng muôn đời như ngàn sợi dây vô hình buộc chặc lòng chị:
“Hạnh phúc nào hơn khi ta ôm trong tim mảnh đất/ Cho thăng hoa khúc nhạc dậy
lòng mình”.
Cái tình quê không dễ gì phai nhạt trong lòng mỗi người. Chị “tham lam”
muốn “gom hết đồng bằng vào giấc cỏ phì nhiêu” (Ru cỏ). Tựa như dòng sông chảy dùng dằng ra biển lớn tình yêu, lại
khắc khoải nhớ về nơi khởi phát, lòng chị
dẫu có “Biệt phương nào cũng muốn quay về khóc dưới cội quê hương” (Mái tranh quê).
Phải thật yêu thương mảnh đất mình sinh sống, phải canh cánh trong lòng
hai chữ quê hương, phải gắn bó chân thành thế nào đó… mới là nguồn “phù sa” dưỡng
nuôi hồn thơ chị. Về sông Hồng, chị không quên đoái hoài miệt Cửu Long đất mẹ với
bao thủy chung. Như ôm đất nước vào lòng son sắt, mọi giới hạn về vị trí địa lí
bị phá vỡ bởi khoảng cách lòng người được xóa nhòa. Trong Sông Hồng có hình ảnh
câu vọng cổ phương Nam hòa quyện: “Cửu Long cách sông Hồng một vòng tay
buông/ Nghe tiếng nhớ chảy về tim đất nước/ … Xin gởi sông Hồng khúc lụa Tân
Châu/ Tiếng vó ngựa khua nhấn chìm nhịp võng/ Hoa sữa đứng xếp hàng chở những nốt
tri âm ngân bổng/ Hà Nội một chiều/ Câu vọng cổ cõng dáng áo bà ba” (Tự khúc Cửu Long kính gởi sông Hồng).
Thơ Huỳnh Thúy Kiều giàu cảm xúc với duyên nợ miền Tây. Chị viết say mê
tất cả những gì có nơi chị sống, từng trải. Chị như nhà khảo cổ đi khai quật đồng
bằng. Chủ đề đồng bằng được chị khai thác triệt để mà không lo cạn. Lắm lúc
trong giới văn sĩ lo ngại thay chị, rằng tập trung hoài về một chủ đề sẽ hết
cái để viết. Nhưng không, phù sa đồng bằng châu thổ mỗi năm còn được bồi lắng từ
dòng Mêkông, thì chất liệu trong kho thơ chị còn trầm tích nhiều điều để viết,
nhiều điều còn ấp ủ, hoài thai. Khi nào còn sống, trái tim chị hãy còn đập với
hơi thở đồng bằng ruột thịt. Chính nơi đây là nguồn sữa thơm mát nuôi nấng hồn
thơ chị: “Nhân nghĩa bà gieo qua từng câu chuyện kể/ Tôi lớn lên giữa yêu
thương của xóm làng yên bình dung dị/ Có viết suốt đời cũng không thể trả hết nợ
ca dao” (Ru lại bờ ca dao) .
Với chị, cảnh trí đồng bằng luôn thường trực trong từng hơi thở. Duyên nợ
châu thổ không dễ gì phai nhạt trong tâm hồn. Nhìn đêm trăng trung thu ở thành
phố, cũng gợi cho chị nhớ về một nơi thôn dã có trẻ thơ nghèo khó hay là hoài
niệm chính tuổi thơ hồn nhiên, trong
sáng? “Trung thu quê nghèo đâu rồi những nia, thúng đựng trăng?/ Giấc ngủ mớ đèn
ông sao cá chép/ Trẻ con thành phố cầm đèn lồng nhốt chùm trăng công nghiệp/ Tôi
khóc riêng mình vô tình hoang hoải bờ ca dao” (Ru lại bờ ca dao). Đôi khi chị thèm khát được chạm vào dòng nước đỏ
sông quê mỗi khi xa. Cái cảm giác mát lành ấy đằm vào từng làn da, thớ thịt, chỉ
có thể có ở chính con sông chảy qua bao thăng trầm mà đất mẹ dâng tặng lại: “Về
khỏa nước sông quê để rửa trôi nhọc nhằn/ Mưa tháng sáu vẫn rạt rào chảy giữa
hai bờ lúa/ Đong tuổi thơ phía nào cũng thấy mình mắc nợ” (Giữa hai bờ lúa) .
Đồng hành với bước đường thơ chị, hóa ra chị cũng viết nhiều về đề tài
khác. Hồn thơ Huỳnh Thúy Kiều cũng rất có duyên khi chạm đến đề tài vùng miền ngoài châu thổ. Với “Sài Gòn Sài Gòn”:
“Sài Gòn cũng có mình ên, dạ thưa, mô tê, chi nớ/ Tiếng cười vang xa/ Rộn nỗi nhớ
ba miền”. Nhưng tôi thích đọc những bài thơ chị viết về Huế hơn. “Anh thử một lần
uống cạn đồng bằng để say khúc tương tư/đêm hóa đá. Câu vọng cổ nghẹn tràn
đau lồng ngực/ Sông Hương buồn thả nhớ tím tiếng chuông thổn thức/ Thiên Mụ đổ
giờ… Nghe chừng như lạ thành quen! (Rất
Huế). “Lỗi hẹn với Hương giang” có
những câu thơ tuyệt hay: “Gọi nhớ ngân tràn theo tiếng chuông Thiên Mụ/ đợi em
về/ Thành Nội hóa rong rêu/… Em chưa đến/ Mưa trút buồn lên Huế/ Giọng em cười/
Nắng giòn ngọt sông Hương/ … Em là khách sao nhớ Huế tím bời bời nhớ/ Hương
giang buồn vì lời hẹn chưa khô.” Hay khi thưởng ngoạn Đèo Ngang, cảnh hoang dại hiện ra tương đối sống động trước
“anh” và “em”: “Bông sim tím chân đèo,
mây cũng xòe váy tím/ Núi biếc chiều, lưng áo tơi cũng biếc/ Tóc em thơm anh khẽ gọi gió về/ Hoành Sơn mùa vẫn
mùa đội gió vò mưa tưới núi đau đáu nhìn tít tắp biển khơi/Đã mấy trăm năm/ Tiều
phu cong dáng cõng nắng xuống chân đồi.” (Tùy
hứng đèo Ngang).
Thi thoảng chị cũng viết về tình yêu lứa đôi. (Hay do sự đọc hết sức
khiêm tốn của mình mà chưa bắt gặp?): "Tình yêu đầu anh chưa kịp đặt tên/ gói khoảnh
khắc/ đưa vào ngăn rất vội/ se sắt lòng em/ thương nhớ ngụy trang.” (Phía không em)
Nếu một ngày sóng xô anh dạt về phía em/ biển đã mặn/ van em đừng cứu
anh bằng nước mắt/ … Nếu một ngày không thể có em/ bình minh anh chẳng bao giờ
rạng nữa. (Nếu)
Thả những tin nhắn chơi vơi lên bầu trời/ như bầy ngựa không dây
cương/ đêm hoang/ thời gian ngưng chảy. (Tin
nhắn, đêm hoang và bầy ngựa)
Tinh túy của thu là em, hoa sữa hay hương dạ lý?/ anh vụng về quên mật
khẩu mở cửa thu. (Thưa em, mùa thu)…
Những câu thơ ngồn ngộn ý tứ yêu thương đấy chứ!
Chị rất thành công khi viết về đề tài sông nước Nam bộ, nơi chị sinh ra.
Còn với đề tài lịch sử, chị cũng mang lại dấu ấn đậm nét của tình yêu đất nước,
dân tộc khi cơi nới sang mảng đề tài này. Chị viết về “Ký ức chiến tranh “ thật chan chứa cảm xúc của một người lính cụ Hồ,
giờ mái đầu đã bạc phơ, trở về chiến trường xưa viếng hương hồn đồng đội: “Xuân
Mậu Thân cha mới chỉ là chàng thanh niên ngoài hai mươi tuổi/Gởi một con mắt lại
chiến trường cùng bao nhiêu xác đồng đội ven lộ Vòng Cung/… Ký ức chiến tranh là
vô vàn khúc hát chưa được đặt tên/ Có oai hùng, có nhiệt huyết, có bi thương và
tràn trề nhựa sống”. Hay khi “Đưa cha về thăm nghĩa trang Trường Sơn”, như chuyến
hành hương về nguồn, về với dòng sử chói lọi chiến công cũng lắm mà tang thương
cũng không hề ít, ghi dấu một “màu hoa đỏ” (Thuận Yến) hiển hách, hừng hực hào
khí” nói như nhà thơ Viễn Phương:” Chiến thắng lớn từ hy sinh to lớn/ Ai đếm
khăn tang ai đong máu chiến trường”, “Tiếng Bác Hồ: Dù đốt cháy dãy Trường
Sơn” (Bài văn bia - Viễn Phương), chị như lặng đi, tưởng tiếc: “Bao nhiêu chàng
trai đã bơi qua dòng Thạch Hãn nuôi giấc mơ hòa bình xứ sở/ Mỗi mét đất Thành cổ
Quảng Trị gánh trên mình hơn sáu kí lô bom đạn/ Chiến trường nào không nhuộm
máu cha anh?/ … Cha nói với con sẽ hát ru đồng đội đang nằm kia khúc U minh trầm
mặc/ Giọt nước mắt vỡ òa theo nếp nghĩ thời gian”. Tuy nhiên, với đề tài này,
tôi thích nhất khi đọc bài “Em viết cho anh từ phía cuối chân trời”. Đó là một
thứ tình yêu sẵn sàng dâng hiến cho Tổ quốc, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” (Hồ Chí Minh): “Em viết cho anh từ phía cuối chân trời/ Cửa Ông Trang, Bồ Đề cũng
đang sục sôi uất nghẹn/ Đất nước mình không thể để mất dù chỉ một cen-ti-met biển/ Bão
dậy rồi/ Em nhường anh cho Tổ quốc thương yêu! ”…
Cuối cùng, rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà thơ Huỳnh Thúy Kiều được
nhiều cây bút phê bình“gạo cội” trong giới văn chương tốn nhiều thời gian viết
về chị đến thế. Hãy nghe nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch cảm xúc: “Cuộc sống là hành
trình khắc khoải vô minh về cõi chết. Thơ Huỳnh Thúy Kiều như những lớp sóng
ngôn từ phiêu linh ảo diệu phủ phê trên hành trình ấy. Có thể nói thơ Huỳnh
Thúy Kiều là một diễn trình thi pháp cấu trúc năng lượng: Năng lượng sống liên
hồi, năng lượng yêu hoang dã và cả năng lượng tối u huyền”... Còn với nhà thơ
Trần Quang Quý xem: “Hàng loạt bài thơ, câu thơ như căn cước văn hóa của châu
thổ, những miệt vườn phì nhiêu, những tên gọi nôm na, những đan chảy của phù
sa, kênh rạch…”. Cái khác của Huỳnh Thúy Kiều so với nhiều cây bút thơ cùng
thế hệ là chị không quá bận tâm hoặc tự mình mày mò rồi mắc kẹt, rối rắm, mù mờ
trong mớ hỗn mang, dây nhợ của những lý thuyết sáng tác nhập ngoại này nọ. Chị
tự tin đi giữa đời sống quê miền ngồn ngộn chất liệu cảm hứng.” Nhưng ông cũng
thành thật xác nhận một chút gì đó hơi luyến tiếc: “Giá như, trong những đợt
triều cường cảm xúc và thi tứ, Huỳnh Thúy Kiều có một khoảng kìm lắng, để những
câu thơ, ý thơ tăng hiệu năng lay thức từ bề sâu thi cảm. Đôi khi sự ham mê lại
trở nên thừa thãi, thừa mà vẫn thiếu.” Dưới góc độ là độc giả, đôi khi còn cảm
thụ chủ quan và thiển cạn, tôi xin mượn lời của những người “trong nghề” để bày
tỏ đồng cảm với những hạn chế nhất định trong thơ chị. Tuy nhiên, con đường chữ nghĩa còn dài, đơn độc và lắm truân chuyên,
nói như nữ sĩ Lê Khánh Mai:” Ta chung một lũ trời đày/ Đường
quang chẳng bước nẻo lầy sa chân/ Đa đoan vấn vít gió trăng/ Nỗi sầu muôn thuở
đeo mang phận người…” (Tâm khúc), trót lỡ “nhúng chàm” vào con đường thi ca như
nghiệp phải trả, thì ta không nên có tư tưởng vội cầu toàn ở tác giả, dẫu biết
xưa nay khen chê là lẽ tất yếu không có gì lạ của người làm công tác phê bình.
Thay vào đó, phải chăng mọi người hãy cởi mở đón nhận với tất cả lòng yêu mến,
trân trọng một hồn thơ đích thực, không lấy thơ làm con đường tiến thân hay
mang lại phú quý vinh quang gì? Hãy thầm lặng chờ đợi, cần lắm bạn tri âm tri
kỷ để cổ vũ cho một giọng thơ đầy sáng tạo và hứa hẹn sự chuyển dịch lớn trong
nhiều tập thơ kế tiếp, tôi tin chắc vậy.
Tp HCM, 24.1.2018
Phan Hoài Thương
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét